Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến Quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 35 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q185063 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
:''Nghĩa khác [[Thời đạikỳ SengokuChiến Quốc (Nhật Bản)|Chiến Quốc (Nhật Bản)]].''
{{lịch sử Trung Quốc}}
{{otheruses}}
Dòng 6:
Thời đại '''Chiến Quốc''' (Chữ Hán: 戰國時代/战国时代; bính âm: Zhànguó Shídài) kéo dài từ khoảng [[thế kỷ 5 TCN]] tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời [[nhà Tần|Tần]] năm [[221 TCN]]. Thông thường nó được coi là giai đoạn thứ hai của [[nhà Chu|nhà Đông Chu]], tiếp sau giai đoạn [[Xuân Thu]], dù chính nhà Chu đã kết thúc vào năm [[256 TCN]], 35 năm trước khi kết thúc giai đoạn Chiến Quốc. Tương tự như giai đoạn [[Xuân Thu]], vị vua nhà Chu chỉ đơn giản là một vua [[bù nhìn]]. Tên gọi '''Chiến Quốc''' xuất phát từ cuốn ''[[Chiến Quốc sách]]'' được biên soạn đầu thời [[nhà Hán]]. Điểm khởi đầu thời Chiến Quốc hiện vẫn còn tranh cãi. Trong khi thông thường mọi người sử dụng năm [[475 TCN]] (tiếp sau thời [[Xuân Thu]]) thì năm [[403 TCN]] – năm mà nước [[Tấn (nước)|Tấn]] bị chia thành ba – cũng thỉnh thoảng được coi là năm bắt đầu của thời kỳ này.
 
Thời Chiến Quốc, trái với thời [[Xuân Thu]], là một giai đoạn mà các lãnh chúa địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố quyền lực. Quá trình này đã bắt đầu ở thời [[Xuân Thu]], và tới [[thế kỷ 3 TCN]], bảy nước lớn nổi lên chiếm vị trí áp đảo. [[Bảy cường quốc thời Chiến Quốc|Bảy nước lớn thời Chiến Quốc]] (戰國七雄/战国七雄 Chiến Quốc thất hùng), gồm có [[Tề (nước)|Tề]] (齊), [[Sở (nước)|Sở]] (楚), [[Yên (nước)|Yên]] (燕), [[Hàn (nước)|Hàn]] (韓), [[Triệu (nước)|Triệu]] (趙), [[Ngụy (nước)|Nguỵ]] (魏) và [[Tần (nước)|Tần]] (秦). Một dấu hiệu khác của sự tăng cường quyền lực là sự thay đổi danh hiệu: trước kia các lãnh chúa vẫn xếp mình vào bậc công (公) hay hầu (侯), chư hầu của vua [[nhà Chu]]; nhưng trong giai đoạn này họ đã lần lượt tự xưng vương (王), có nghĩa là họ ngang hàng với vua nhà Chu.
 
Giai đoạn Chiến Quốc là giai đoạn phát triển của [[sắt|đồ sắt]] tại Trung Quốc, thay thế [[Đồng (nguyên tố)đồng|đồ đồng]] trở thành vật liệu chính được sử dụng trong chiến tranh. Các vùng như Thục ([[Tứ Xuyên]] ngày nay) và Việt ([[Chiết Giang]] ngày nay) cũng đã bị sáp nhập vào vùng ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc trong thời gian này. Những bức tường do những quốc gia xây dựng nên để ngăn chặn các bộ lạc du mục phía bắc và ngăn chặn lẫn nhau là tiền thân của [[Vạn Lý Trường Thành|Vạn lý trường thành]] sau này. Các triết thuyết khác nhau đã được phát triển trong giai đoạn [[Bách Gia Chư Tử|Bách gia chư tử]], gồm [[Nho giáo|Khổng giáo]] (được phát triển chi tiết bởi [[Mạnh Tử]]), [[Đạo giáo]] (được phát triển thêm bởi [[Trang Tử]]), [[Pháp gia]] (do [[Hàn Phi Tử]] lập ra) và [[Mặc học]] (được [[Mặc Tử]] sáng lập). [[Thương mại]] cũng trở nên quan trọng, và một số nhà buôn đã có quyền lực to lớn trong chính trị. Những chiến thuật quân sự cũng thay đổi. Không giống như giai đoạn Xuân Thu, đa số các quân đội thời Chiến Quốc gồm bộ binh và kỵ binh và việc sử dụng xe ngựa chiến đấu đã dần bị quên lãng.
 
Cũng ở đầu giai đoạn này, nhà chiến lược quân sự [[Tôn Vũ]] đã viết cuốn ''[[Binh pháp Tôn Tử|Tôn Tử binh pháp]]'' được công nhận là tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong 7 tác phẩm về nghệ thuật quân sự Trung Quốc cổ đại. (Bảy tác phẩm quân sự kinh điển ([[thất đại kỳ thư]]) gồm: [[Lục Thao|Lục thao]] của [[Khương Tử Nha|Thái Công]], [[Binh pháp Tôn Tử|Tôn Tử binh pháp]], [[Tư Mã binh pháp]], [[Ngô Khởi]] (吳起) [[binh pháp]], [[Uất Liêu Tử binh pháp]], [[Tam lược]] của [[Hoàng Thạch Công]], [[Đường Thái Tông]] và [[Lý Vệ công vấn đáp]]). Trong suốt lịch sử phong kiến Trung Quốc, [[thất đại kỳ thư]] này được cất giấu cẩn thận và chỉ những ai theo nghề binh mới được tiếp cận chúng. Hiện nay cả bảy tác phẩm đó được trình bày lại trong cuốn "''The Seven Military Classics of Ancient China''" của Ralph D. Sawyer)
 
== Chiến Quốc thất hùng ==
Dòng 41:
 
[[Tập tin:Iron sword and two bronze swords, Warring States Period.JPG|nhỏ|Một thanh kiếm bằng sắt và hai thanh kiếm bằng đồng có niên đại từ thời Chiến Quốc.]]
Năm [[371 TCN]], [[Ngụy Vũ hầu|Ngụy Vũ Hầu]] chết mà chưa có người kế vị, khiến nước [[Ngụy (nước)|Ngụy]] rơi vào nội chiến tranh giành quyền lực. Sau ba năm nội chiến, nước [[Triệu (nước)|Triệu]] và [[Hàn (nước)|Hàn]], lợi dụng cơ hội tấn công [[Ngụy (nước)|Ngụy]]. Khi sắp chiếm được nước Ngụy, các lãnh đạo nước Triệu và nước Hàn lại bất hoà với nhau về cách thức xử lý nước Ngụy và quân đội cả hai nước đã bí mật rút lui. Nhờ thế, [[Ngụy Huệ Vương]] (lúc ấy vẫn đang là tước Hầu) có thể lên ngôi làm vua nước [[Ngụy (nước)|Ngụy]].
 
Năm [[354 TCN]], Ngụy Huệ Vương phát động một cuộc tấn công quy mô lớn vào nước [[Triệu (nước)|Triệu]], một số nhà sử học cho rằng để trả thù việc họ đã tàn phá nước Ngụy trước đó. Tới năm [[353 TCN]], [[Triệu (nước)|Triệu]] thua nhiều trận lớn và một trong những thành phố lớn của họ - Hàm Đan (邯鄲), thành phố sau này trở thành kinh đô nước Triệu – bị bao vây. Vì thế, nước [[Tề (nước)|Tề]] lân cận quyết định giúp đỡ nước Triệu. Chiến thuật mà Tề sử dụng là do [[Tôn Tẫn]] (孫臏), người lúc ấy là quân sư trong quân đội nước Tề, đề ra. Tề tấn công vào nước Ngụy khi quân đội Ngụy đang bao vây Triệu, buộc Ngụy phải rút lui. Chiến thuật này đã thành công; quân Ngụy vội vàng rút về, và gặp quân Tề ở [[trận Quế Lăng|Quế Lăng]] (桂陵) nơi Ngụy đã bị đánh bại một trận mang ý nghĩa quyết định. Từ sự kiện này xuất hiện câu nói: "Vây Ngụy cứu Triệu" (圍魏救趙).
Dòng 47:
Năm [[341 TCN]], Ngụy tấn công [[Hàn (nước)|Hàn]], và [[Tề (nước)|Tề]] lại can thiệp một lần nữa. Hai vị tướng ở trận Quế Lăng lần trước lại gặp nhau, và nhờ chiến thuật khôn khéo của [[Tôn Tẫn]], Ngụy lại bị thất bại to lớn một lần nữa tại [[trận Mã Lăng]] (馬陵). Trong trận này, [[Bàng Quyên]], chủ tướng quân Ngụy tử trận.
 
Tình thế của nước Ngụy càng nguy ngập hơn nữa khi [[Tần (nước)|Tần]] lợi dụng cơ hội Ngụy thua liên tục trước Tề để tấn công Ngụy năm [[340 TCN]] theo mưu đồ của nhà cải cách nước Tần là [[Thương Ưởng]] (商鞅). Ngụy bị đánh bại và buộc phải nhượng một phần lớn đất đai để đổi lấy hoà bình. Việc này khiến kinh đô [[An Ấp (kinh đô)|An Ấp]] (安邑) của Ngụy rơi vào tình thế nguy hiểm, vì thế Ngụy phải rời đô sang Đại Lương (大梁)(sau này đổi thành [[Khai Phong|Biện Lương]] (汴梁)). Vì vậy, từ đó trở đi nước Ngụy còn được gọi là Lương.
 
Sau những sự kiện này, nước Ngụy trở nên suy yếu và nước Tề cùng nước Tần trở thành hai nước thống trị ở giai đoạn này.
Dòng 63:
Làng xóm tổ chức lại hết. Cứ năm hay mười nhà họp thành một liên gia có bổn phận phải phòng kẻ gian, tố cáo kẻ có tội, nếu không thì chịu trách nhiệm chung. [[Mặc Tử]] một thế kỷ trước đó cũng đã có ý đó nhưng chính sách của Thương Ưởng triệt để hơn: làm thay đổi cả tổ chức hương thôn, chia lại đất đai canh tác, phá bỏ hàng rào cũ, do đó mà thay đổi hẳn lối sống, phong tục, có thể gọi là một cuộc [[cách mạng]].
 
Các luật thưởng phạt quân nhân rất nghiêm, thứ dân có chiến công thì được chức tước, quý tộc mà không có chiến công thì bị giáng xuống thành thứ dân. Tất cả cải cách đều nhằm mục đích duy nhất là sản xuất lúa cho nhiều để nuôi binh, là luyện binh cho mạnh để xâm chiếm nước khác. Khi [[Tần Hiếu công]] chết (338 TCN), quý tộc trả thù và Thương Ưởng bị phanh thây. Nhưng non một thế kỷ sau, vua Tần tên [[Tần Thủy Hoàng|Doanh Chính]] (tức Tần Thủy Hoàng) áp dụng lại chính sách đó mà làm cho Tần mạnh nhất trong số thất hùng.
 
== Các nước xưng vương ==
[[Tập tin:W Zhou Yan helmet.JPG|nhỏ|Một mũ trụ bằng đồng của binh sĩ [[nước Yên]]]]
Năm [[334 TCN]], vua nước [[Ngụy (nước)|Nguỵ]] và [[Tề (nước)|Tề]] đồng ý công nhận lẫn nhau về tước [[vương]] (王), chính thức hoá sự độc lập của các nước chư hầu và gạt bỏ vị thế của vua nhà Chu từ đầu thời [[Nhà Chu|Đông Chu]]. Vua nước [[Ngụy (nước)|Nguỵ]] và Vua nước [[Tề (nước)|Tề]] tiến lên ngang hàng với Vua nhà Chu, đã liên tục kế vị từ thời [[Xuân Thu]]. Từ đó về sau, tất cả các nước cuối cùng đều tự phong vương, đánh dấu sự khởi đầu cho sự kết thúc của nhà Chu.
 
Năm [[325 TCN]], vua nước [[Tần (nước)|Tề]] tự phong Vương.
 
Năm [[323 TCN]], vua nước [[Nước Hàn (nước)|Hàn]] và [[Yên (nước)|Yên]] tự xưng Vương.
 
Năm [[318 TCN]], vua nước [[Tống (nước)|Tống]] xưng Vương.
Dòng 82:
Sở đạt đến đỉnh cao sức mạnh của mình vào năm [[334 TCN]] khi họ chiếm được nhiều vùng đất đai của Trung Nguyên. Những sự kiện dẫn tới điều này bắt đầu khi [[Việt (nước)|Việt]] (越國) chuẩn bị tấn công [[Tề (nước)|Tề]]. Vua Tề gửi sứ thần tới thuyết phục vua Việt tấn công Sở thay vì tấn công nước mình. Việt ồ ạt tấn công Sở, nhưng bị Sở phản công, đánh bại, sau đó Sở chinh phục toàn bộ Việt.
 
Tuy nhiên, đến thời [[Sở Hoài vương|Sở Hoài Vương]] (328-299 TCN), Sở bị mắc lừa mưu kế của [[Trương Nghi]], thừa tướng và biện sĩ nước Tần, vì vậy đã bị Tần liên tiếp đánh bại và để mất vùng [[Hán Trung]]. Đến những năm 279-276 TCN, tướng Tần là Bạch Khởi lại đánh bại Sở, lấn chiếm nhiều đất đai trong đó có kinh đô của sở là [[Dĩnh]] (郢). Sở buộc phải dời đô về Trần (278 TCN) rồi Thọ Xuân (241 TCN) và từ đó suy yếu hẳn, không còn là đối thủ của Tần nữa.
 
Đến thời [[Sở Khảo Liệt vương|Sở Khảo Liệt Vương]] (262-238 TCN), [[Xuân Thân quân|Xuân Thân Quân]] Hoàng Yết được phong làm Tướng quốc đã đề xuất nhiều biện pháp kinh tế, chính trị tiến bộ giúp khôi phục lại phần nào sức mạnh của Sở. Trong khi Tần liên tiếp tấn công Tam Tấn thì Sở cũng tiến sang phía đông tiêu diệt hàng loạt nước nhỏ, điển hình là nước Lỗ năm 256 TCN. Tuy nhiên việc này chỉ có thể bù đắp phần nào cho những thua thiệt trong cuộc tranh chấp với Tần mà thôi chứ không thể khôi phục lại ưu thế trước kia nữa.
 
== Ưu thế của Tần và các chiến lược Hợp tung, Liên hoành ==
Tới cuối thời Chiến Quốc, Tần trở thành nước rất mạnh so với cả sáu nước còn lại. Vì thế, các chính sách của nước này là nhằm chống lại mối đe doạ từ nước Tần, với hai trường phái chính: [[Hợp tung]] (合縱/合纵 [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: hézòng), hay liên kết với nhau để chống sự bành trướng của Tần; và [[Liên hoành]] (連橫/连横 [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: liánhéng), hay liên kết với Tần để dựa vào uy thế của họ. Ban đầu thuyết Hợp tung mang lại một số thành công, dù cuối cùng nó đã tan vỡ. Tần luôn lợi dụng thuyết Liên hoành để đánh bại từng nước một. Trong giai đoạn này, nhiều triết gia và chiến thuật gia đã đi chu du các nước để khuyên các vị vua cai trị đưa ý kiến của họ vào áp dụng thực tiễn. Những nhà chiến thuật gia đó rất nổi tiếng về những mưu mẹo và trí tuệ của mình, và được gọi chung là Tung Hoành gia (縱橫家), lấy theo tên của hai trường phái chiến lược chính.
 
== Tần chinh phục các nước khác ==
Dòng 105:
* [[Tô Tần]], chính trị gia, người lập chiến lược "hợp tung", liên kết 6 nước chống Tần.
* [[Trương Nghi]], chính trị gia, người lập chiến lược "liên hoành", giúp nước Tần phá liên minh 6 nước.
* [[Chiến Quốc tứ công tử|Tứ công tử]] bao gồm: [[Mạnh Thường quân|Mạnh Thường Quân]] '''Điền Văn''' [[Tề (nước)|nước Tề]], [[Bình Nguyên quân|Bình Nguyên Quân]] '''Triệu Thắng''' [[Triệu (nước)|nước Triệu]], [[Tín Lăng quân|Tín Lăng Quân]] '''Ngụy Vô Kỵ''' [[Ngụy (nước)|nước Ngụy]], [[Xuân Thân quân|Xuân Thân Quân]] '''Hoàng Yết''' [[Sở (nước)|nước Sở]].
* [[Lạn Tương Như]], tướng quốc nước Triệu
* [[Lý Tư]], thừa tướng nước Tần.
Dòng 119:
 
=== Tướng lĩnh, lãnh đạo quân đội và các quân sư ===
* [[Tôn Tẫn]], cháu [[Tôn Vũ|Tôn Tử]] quân sư cho Điền Kỵ, tướng nước Tề
* [[Ngô Khởi]], làm tướng lĩnh cho Ngụy, Sở
* [[Nhạc Nghị]], tướng Yên, chỉ huy đánh phá nước Tề
Dòng 129:
 
=== Thích khách ===
* [[Chu Hợi]], môn khách của Tín Lăng quân [[Tín Lăng quân|Ngụy Vô Kỵ]], giết [[Tấn Bỉ]], tướng nước Ngụy để đoạt binh quyền về cho Tín Lăng quân Nguỵ Vô Kỵ đi cứu Triệu.
* [[Kinh Kha]], được Thái tử Đan của nước Yên phái đi hành thích Tần vương nhưng thất bại, đây là nguyên nhân chính về sự diệt vong của nước Yên.
* [[Cao Tiệm Ly]], nhạc công, bạn của Kinh Kha, mưu sát Tần vương để trả thù cho Kinh Kha.