Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Hòa Bình”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q4871237 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{Thông tin chiến tranh
|conflict=Chiến dịch Hòa Bình
|partof=[[Chiến tranh Đông Dương|Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất]]
|image=
|caption=
Dòng 8:
|result=Quân đội Nhân dân Việt Nam giành [[thắng lợi chiến lược]]
|combatant1=[[Hình:Flag of France.svg|25px]] [[Liên hiệp Pháp]]
*{{flagicon|France}} [[Pháp|France]]
*[[Tập tin:Flag of South Vietnam.svg|25px]] [[Quốc gia Việt Nam]]
|combatant2=[[Hình:Flag of North Vietnam 1945-1955.svg|25px]] [[Việt Minh]]
Dòng 23:
==Hoàn cảnh==
===Kế hoạch của Pháp===
Sau thất bại ở [[chiến dịch Biên giới]] thu - đông năm 1950, tiếp đó lại bị đánh mạnh ở đường 18, Hà Nam Ninh, quân Pháp lâm vào thế phòng ngự bị động. Chi phí cho [[chiến tranh Đông Dương]] càng ngày càng nặng và càng đào sâu túi tiền của dân Pháp, hơn nữa, những chi phí đó còn vượt qua những chi phí kiến thiết mà nước Pháp đang cần. Tới năm 1951, chi phí cho chiến tranh Đông Dương đã lên tới 308 tỷ [[Franc]], gấp 2,5 lần chi phí cho tái thiết đất nước sau [[chiến tranh thế giới thứ hai|thế chiến thứ hai]] của Pháp. Do đó, tướng Pháp [[Jean de Lattre de Tassigny]] phải cần một hành động hiệu quả và một thắng lợi để có tiếng vang gây thiện cảm ở quốc hội Pháp.
 
Để giành lại quyền chủ động, mùa đông năm 1951, Pháp mở cuộc tiến công ra [[Hòa Bình]], lập phòng tuyến [[sông Đà]] nối liền với tuyến phòng thủ trung tâm nhằm nối lại “Hành lang Đông - Tây”, thực hiện tăng cường khả năng phòng thủ đồng bằng Bắc Bộ, cắt đứt đường liên lạc giữa [[việt Bắc|chiến khu Việt Bắc]] với các liên khu 3 và 4. Ở Hoà Bình, Pháp cho thành lập các ''"Xứ M­ường tự trị"'' để thực hiện "[[Da vàng hóa chiến tranh]]", nhằm dùng các lợi ích về kinh tế-chính trị để thuyết phục người dân tộc thiểu số đi lính cho Pháp.
 
Cuối tháng 10 – 1951 vừa trở lại Hà Nội, Đờ Lát tuyên bố: ''“Đã tới lúc giành lại thế chủ động trên chiến trường, buộc Việt Minh phải tiếp nhận chiến đấu trên một địa điểm do Pháp lựa chọn.”''<ref>Vũ Dương Ninh; Chiến cuộc Điện Biên Phủ trong bối cảnh quốc tế những năm 1950, Tạp chí nghiên cứu Lịch Sử số 3/ 2004.</ref> Đờ Lát đã thống nhất với [[Raoul Salan]] về đề xuất đánh chiếm Hoà Bình. Từ Hoà Bình để mở đường đánh chiếm vùng tự do Liên khu 4 với các cuộc hành binh:
 
* Cuộc hành binh '''“Hoa Tuylíp”''' ngày 10/11/1951, với 12 [[tiểu đoàn]] bộ binh và 5 cụm [[pháo binh]] của Pháp bất thần chiếm [[Chợ Bến]] để cắt đường di chuyển của QĐNDVN từ Việt Bắc xuống đồng bằng. Dưới quyền chỉ huy của De Linarès, đoàn quân thiết giáp của đại tá [[Christian de Castries]], toán quân biệt kích của đại tá Dodelier cùng với đoàn quân lưu động Mường của đại tá Vanuxem và một tiểu đoàn dù nhảy thẳng xuống trận địa, ba mặt cùng tiến vào Chợ Bến. Đến 5 giờ chiều cùng ngày 9-11 thì Pháp kiểm soát được khắp vùng Chợ Bến, khoảng 100 cây số vuông, QĐNDVN hầu như không kháng cự mà âm thầm rút lui.
* Cuộc hành binh '''“Hoa Sen”''' ngày 14/11/1953 do [[Raoul Salan]] chỉ huy, lực lượng gồm 16 tiểu đoàn, 8 cụm pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 2 đại đội [[xe tăng]] cùng với [[không quân]]. Buổi chiều 3 tiểu đoàn dù nhảy xuống [[Hòa Bình|Hoà Bình]], đến nửa đêm 2 binh đoàn cơ động chia làm hai hướng, một theo đường số 6 đến thị xã Hoà Bình, theo sông Đà và sông Hồng tiến chiếm [[Tu Vũ]]. Cũng nhảy như hôm tấn công vào Chợ Bến, Hoà Bình bị chiếm dễ dàng, không có sự kháng cự của QĐNDVN.
 
Đoàn xe thiết giáp và xe ủi đất do hai tiểu đoàn [[công binh]] điều khiển tiến theo đường số 6 từ [[Hà Đông]] qua [[Xuân Mai]] tới [[Hòa Bình|Hoà Bình]], dài khoảng 60&nbsp;km, mở đường cho bộ binh. Ngày 15-11-1951, Salan tuyên bố Pháp kiểm soát được Hoà Bình, khoá cửa ngõ tiếp tế và giao thông của Việt minh giữa đồng bằng và [[Việt Bắc]]. Chiều ngày 15/11, Đờ Lát đích thân chủ trì cuộc họp báo tại Hà Nội loan tin chiến thắng Hoà Bình và tuyên bố: ''“Tiến công Hoà Bình đã gây khó khăn lớn cho đối phương. Tiến công Hoà Bình có ý nghĩa chiến lược là chúng ta đã buộc đối phương phải xuất trận. Trận Hoà Bình có ảnh hưởng quốc tế lớn”''.<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi kí; NXB: Quân đội nhân dân 2006 (Hữu Mai thể hiện)</ref>
 
===Kế hoạch của Việt Minh===
Trước kế hoạch của Pháp, [[Bộ Chính trị (định hướng)|Bộ Chính trị]] đã quyết định mở chiến dịch tấn công quân Pháp ở Hòa Bình nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thị xã Hòa Bình, đập tan phòng tuyến sông Đà và tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ.
 
Ngày 15/11/1951 Tổng quân uỷ họp sau khi thảo luận Hội nghị đã quyết định: đề nghị Trung ương và chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] ''“cho mở chiến dịch tại Hoà Bình, chuyển hướng hoạt động thụ động sang tiến công địch mới chiếm đóng. Hoà Bình là hướng chính, các nơi khác là hướng phối hợp. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch. Đẩy mạnh chiến tranh du kích”''
Dòng 43:
Ngày 18 tháng 11 năm 1951, Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ nhận định: ''“Đó là một cơ hội hiếm có cho ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đánh ra Hoà Bình địch phải phân tán lực lượng cơ động, lực lượng tinh nhuệ trên một mặt trận rộng lớn, núi rừng hiểm trở, địa hình đột xuất, công sự chưa vững chắc. Mặt khác vì phải tập trung phần lớn quân cơ động ra Hoà Bình nên lực lượng địch ở đồng bằng bị dàn mỏng, các vùng từ hữu ngạn, tả ngạn Liên khu 3 đến Trung Du đều tương đối sơ hở hơn trước”''<ref>Hồ sơ 514, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.</ref>
 
Căn cứ vào nhận định trên, Trung ương chủ trương mở một cuộc tiến công lớn trên cả hai mặt trận: tập trung chủ lực ở hướng chính là [[Hòa Bình|Hoà Bình]] và mạnh bạo đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu ở [[đồng bằng sông Hồng|đồng bằng Bắc Bộ]] nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực, tiến tới phá tan kế hoạch chiếm đóng Hoà Bình của Pháp, đẩy mạnh chiến tranh du kích trọng tâm là đồng bằng Bắc Bộ.
 
Ngày 24/11/1951 Tổng quân Uỷ quyết định mở chiến dịch Hoà Bình sử dụng ba [[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]], 312, 304 vây hãm và tiêu diệt quân cơ giới ở mặt trận Hoà Bình. Hai [[sư đoàn 320, Quân đội Nhân dân Việt Nam|đại đoàn 320]], 316 phối hợp với lực l­ượng vũ trang địa ph­ương và nhân dân phá "bình định" phát triển chiến tranh ở vùng sau l­ưng địch.<ref>http://sovanhoa.hoabinh.gov.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=377:di-tich-lch-s-chin-cong-dit-xe-tng-ca-anh-hung-cu-chinh-lan&catid=52:di-tich-danh-thng&Itemid=88</ref>
 
==Lực lượng hai bên==
===Quân đội Nhân dân Việt Nam===
Gồm ba đại đoàn bộ binh:
*[[Sư đoàn 320, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 320]] đánh địch từ thị xã Hoà Bình đến Trung Hà và hai bên tả, hữu sông Đà,
*[[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]] sẵn sàng chiến đấu.
*[[Sư đoàn 304, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 304]] đánh địch ở phía nam Hoà Bình, tiêu diệt một số điểm cao, cắt đường vận chuyển của Pháp trên đường số 6 để phối hợp với các đại đoàn 308, 312 hoạt động trên tuyến sông Đà và vùng thị xã Hoà Bình.
 
Đại đoàn công binh-pháo binh 351 và LLVT địa phương; phối hợp với chiến dịch, các Đại đoàn 316, 320 được lệnh tiến sâu vào vùng [[quân đội Pháp]] tạm chiếm ở đồng bằng Bắc Bộ, cùng LLVT địa phương đánh [[Pháp]], hỗ trợ nhân dân nổi dậy, phá tề, trừ gian, mở rộng du kích. Đại đoàn 316 được phối thuộc trung đoàn 246, phối hợp với bộ đội địa phương hoạt động ở Bắc Giang, Bắc Ninh. [[Trung đoàn 98]] thâm nhập vào vùng địch hậu Bắc Ninh. [[Trung đoàn 174]] đánh từ một đến hai vị trí ở tuyến ngoài. [[Trung đoàn 176]] bố trí giữ mặt Lạng Sơn.
Dòng 58:
Ý định của Bộ chỉ huy chiến dịch là tập trung binh lực hoả lực đột phá khu phòng ngự sông Đà, đánh một trận mở màn quyết định, tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, mở đường giao thông vận chuyển chiến dịch, đồng thời tạo thế phát triển thuận lợi cho chiến dịch. Đợt đầu tiên nhằm đánh tiêu diệt cụm cứ điểm [[Tu Vũ]], [[núi Chẹ]], nằm trong tuyến phòng thủ phân khu sông Đà của Pháp và là hướng chủ yếu của chiến dịch. Phương châm là ''"đánh điểm diệt viện"'', kết hợp chặt chẽ đánh công kiên với đánh phục kích giao thông, tiêu diệt quân viện trên sông, trên bộ, vận dụng linh hoạt chiến thuật đánh vận động, tiêu diệt từng bộ phận quân Pháp đi càn quét sục sạo, buộc Pháp phải co vào các vị trí dã chiến, đánh tiêu diệt quân nhảy dù hoặc quân ứng cứu giải toả.
 
Về đảm bảo hậu cần, Tổng Quân uỷ quyết định thành lập hai Ban cung cấp tiền phương ở bắc và nam Hoà Bình. Ban cung cấp tiền phương mặt trận bắc Hoà Bình có nhiệm vụ bảo đảm cho [[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]], Đại đoàn 312 và Đại đoàn công pháo 351 cùng các lực lượng vũ trang địa phương. Ban cung cấp tiền phương mặt trận nam Hoà Bình có nhiệm vụ bảo đảm cho [[Sư đoàn 304, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 304]], [[Sư đoàn 320, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 320]]. Thời kỳ đầu ở mặt trận Hoà Bình, đã chuẩn bị được 820 tấn gạo và có 20 nghìn dân công phục vụ chiến dịch. Công tác quân y, đã chuẩn bị đủ thuốc cứu chữa cho 4.000 thương binh. Kết quả trong 78 ngày đêm bảo đảm cho chiến dịch các Ban cung cấp mặt trận đã tiếp tế cho bộ đội 6.475 tấn lương thực, thực phẩm, 280 tấn đạn, cứu chữa 6.390 thương binh.
 
===Lực lượng Pháp===
Dòng 64:
Gồm 4 binh đoàn cơ động (GM): 2, 3, 5, 7 và sau được tăng cường 2 binh đoàn cơ động (GM): 1, 4.
 
Sau khi đánh chiếm các vị trí then chốt khu vực [[Hòa Bình|Hoà Bình]]-Đường 6, Sông Đà-Ba Vì (xem hành quân Tuylip và Lôtuyt, tháng 11 năm 1951), Pháp tổ chức phòng ngự thành 2 phân khu: [[Sông Đà]]-[[Ba Vì (định hướng)|Ba Vì]] (khu bắc) và Hoà Bình-đường 6 (khu Nam), trong đó thị xã Hoà Bình được xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm (ngoài ra còn có phân khu Chợ Bến là tiền đồn phía Đông bảo vệ Hoà Bình); lực lượng gồm 13 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 4 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp, 1 đại đội công binh và 1 trung đội [[xe tăng]].
 
Tổ chức phòng ngự của Phápgồm 28 cứ điểm lớn, nhỏ, kiến trúc theo kiểu dã chiến. Mỗi cứ điểm có từ một đến hai đại đội bộ binh chiếm giữ, những nơi quan trọng như Pheo, Đồng Bến, Ao Trạch, Chẹ, Đá Chông thường có ba đại đội bộ binh, được tăng cường một trung đội [[xe tăng]] và một đại đội pháo.
Dòng 71:
===Đợt 1 (10/12/1951 - 26/12/1951)===
 
QĐNDVN tập trung đột phá tuyến Sông Đà: đánh [[quân đội Pháp]] càn quét ở Nam [[Ba Vì (định hướng)|Ba Vì]], tiến công diệt cứ điểm [[Tu Vũ]] (xem [[trận Tu Vũ (1952)|trận Tu Vũ]], 10 tháng 12 năm 1951), đánh nhiều trận phục kích cắt đứt tuyến vận chuyển của [[quân đội Pháp]] trên [[Sông Đà]], uy hiếp đường 6, đồng thời đánh mạnh ở vùng [[quân đội Pháp]] hậu [[Bắc Ninh]]. [[Pháp]] rút bớt lực lượng cơ động từ [[Hòa Bình|Hoà Bình]] về Bắc Ninh để đối phó, nhưng ngay sau đó phải đưa quân trở lại cứu nguy cho Hoà Bình.
 
[[Trận Tu Vũ (1952)|Trận Tu Vũ]] là trận công kiên then chốt mở màn Chiến dịch Hòa Bình. Theo kế hoạch, giai đoạn đầu chiến dịch, xác định trận mở màn quyết định là cứ điểm Tu Vũ (nay thuộc xã Tu Vũ, huyện Thanh Thủy, tỉnh [[Phú Thọ]]). Mục tiêu trận đánh là tiêu diệt một bộ phận sinh lực, triệt đường tiếp tế chủ yếu trên sông, mở rộng đường giao thông vận chuyển chiến lược, tạo thế cho chiến dịch phát triển để giành thắng lợi.
 
Tại cứ điểm Tu Vũ, Pháp bố trí một tiểu đoàn Âu-Phi, một đại đội Mường số 6, tổ chức phòng ngự thành 3 khu (A, B, C) với 3 [[xe tăng]], có công sự gỗ đất, 4 hàng rào kẽm gai, được lực lượng pháo binh ở Chẹ, Đá Chông, Thủ Pháp yểm trợ. Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: Cứ điểm Tu Vũ thuộc phân khu Sông Đà-Ba Vì, tổ chức phòng ngự ở vào thế tương đối yếu so với các vị trí khác, bởi nằm ở vị trí dễ bị cô lập khi bị tiến công do sông ngăn cách và xa các căn cứ [[Sơn Tây]], [[Trung Hà]]. Muốn ứng cứu cho cứ điểm Tu Vũ khi bị tiến công, Pháp chỉ có thể sử dụng đường bộ theo trục đường số 87 và đường thủy theo dòng sông Đà.
 
Các lực lượng tham gia trận đánh Tu Vũ gồm Trung đoàn 88 ([[Sư đoàn 308, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 308]]) được tăng cường một tiểu đoàn bộ binh và 8 khẩu [[sơn pháo]] 75mm, cùng một đại đội súng phòng không 12,7mm. Theo kế hoạch, 17 giờ ngày 10-12-1951, các đơn vị bí mật hành quân vào chiếm lĩnh trận địa, đến hơn 23 giờ ngày 10-12 cơ bản tới các vị trí tập kết. Bộ chỉ huy chiến dịch xác định 3 hướng tiến công: Hướng chủ yếu, do Tiểu đoàn 29 được tăng cường một khẩu [[DKZ]] 57mm, 2 bazoka, tổ chức 2 mũi đột phá tiến công, tiêu diệt sở chỉ huy Tiểu đoàn 1 và lực lượng địch ở khu A. Hướng thứ yếu, do Tiểu đoàn 23 được tăng cường một khẩu ĐKZ 57mm, hai đại liên, tổ chức thành hai mũi đột phá, tiêu diệt địch ở khu B. Hướng phối hợp, Tiểu đoàn 322 được tăng cường một đại đội bộ binh, hai khẩu ĐKZ 57mm, hai cối 82mm, hai đại liên, một sơn pháo 75mm, tiến công tiêu diệt địch ở khu C. Còn Tiểu đoàn pháo binh 80 (thiếu) làm đội dự bị sẵn sàng chi viện hỏa lực cho các hướng khi có lệnh.
 
Ngay sau đó, bộ đội tổ chức các mũi tiến công mãnh liệt vào các vị trí quân địch. Hướng phối hợp nổ súng trước, sau 2 giờ chiến đấu chiếm được khu C. Tiếp đó, trên hai hướng chủ yếu và thứ yếu, sau khi dùng hỏa lực pháo binh chế áp, các đơn vị tổ chức thành các mũi đồng loạt đột phá mãnh liệt vào 2 khu A và B, tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm. 3 giờ 30 phút ngày 11-12-1951, QĐNDVN làm chủ hoàn toàn trận địa.
Dòng 87:
Ngày 13 tháng 12, tại phía bắc thị xã Hoà Bình, quân Pháp đi sục sạo đến xóm Mới, gặp tiểu đoàn 16 trung đoàn 141 chặn đánh, thiệt hại một trung đội và phải rút về thị xã. Ngày 14 tháng 12, Pháp rút binh đoàn cơ động số 4 về Trung Hà, kết thúc cuộc càn quét vùng Ba Vì.
 
Tiêu biểu cho các trận phục kích là các trận đánh ở dốc Giang Mỗ cạnh đ­ường 6A (cũ) thuộc địa phận xóm Giang Mỗ, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh [[Hòa Bình|Hoà Bình]]. Ngày 12, [[trung đoàn 66]] của [[sư đoàn 304, Quân đội Nhân dân Việt Nam|đại đoàn 304]] phục kích trên quãng đường từ Cầu Dụ đến Hang Đá, cách Hoà Bình 15&nbsp;km về phía đông bắc. 11 giờ 45 phút, 30 xe tải phủ bạt kín từ [[Xuân Mai]] lên, cùng lúc 4 xe chở đầy lính từ Hoà Bình xuống đón. Chờ cho đoàn xe lọt vào trận địa, bộ đội nổ súng tiêu diệt xe đi đầu và cuối đoàn xe. Toàn bộ đoàn xe bị chặn lại ở khu vực Cầu Dụ. Dưới sự chi viện của hỏa lực, bộ đội vận động đánh thẳng vào đoàn xe. Sau 20 phút chiến đấu, 34 chiếc xe và toàn bộ quân Pháp trên xe bị tiêu diệt.
 
Ngày 13/12/1951, tiểu đoàn 352 trung đoàn 9 được một trung đội địa phương Hoà Bình phối hợp chiến đấu thực hiện trận phục kích ở làng [[Giang Mỗ]], đoạn từ Hoà Bình đi Chợ Bờ, cách thị xã Hoà Bình khoảng 10&nbsp;km. Quân Pháp lọt vào trận địa, tiểu đoàn 352 nổ súng quyết liệt. Sau 30 phút chiến đấu, năm xe GMC và [[xe tăng]] bị phá huỷ, hơn một đại đội Âu-Phi bị diệt và bị bắt. Lúc chuẩn bị rút thì [[xe tăng]] Pháp tiếp viện tới bắn dữ dội vào đội hình, chặn đ­ường rút và làm nhiều người thương vong. Chiến sĩ [[Cù Chính Lan]] hô anh em tập trung l­ưu đạn cho mình rồi tìm cách tiếp cận nhảy lên xe, giật nắp quăng lựu đạn vào trong xe, lính tăng Pháp nhặt l­ựu đạn ném ra và lái xe tăng chuyển hướng. Cù Chính Lan táo bạo mở chốt [[lựu đạn]], chờ cho khói thuốc xì ra được một vài giây rồi mới ném vào buồng lái. Lựu đạn nổ diệt hết lính tăng trong xe, chiếc xe dừng lại tại chỗ, trận đánh kết thúc thắng lợi. Xác chiếc xe tăng hiện vật hiện vẫn nằm ở giữa khu đất có kè đá xung quanh, chiếc xe tăng mang nhãn hiệu Mỹ: '''“B2885498USA”'''.
 
Trong lúc tình hình chiến sự căng thẳng thì quân Pháp lại nhận tin xấu: bệnh tình của tướng De Lattre đã vô vọng cứu chữa. Từ nhiều tháng qua, De Lattre bị [[ung thư]] chân. Công việc điều khiển Đông Dương, những hành trình qua Pháp và qua Mỹ để xin viện trợ, sự đau buồn vì con chết trận đã làm De Lattre kiệt sức dần, bệnh tình càng ngày càng trầm trọng, đến ngày 19-11-1951, De Lattre về Pháp để vào bệnh viện giải phẫu. Ngày 7-12-1951 De Lattre bất tỉnh, đến ngày 12-12-1951 thì từ trần. Chính phủ Pháp truy tặng chức [[Nguyên soái|Thống chế]] và làm lễ quốc táng. Ngày 8-1-1952, [[Raoul Salan]] được chính thức cử giữ chức quyền Chỉ huy tối cao quân đội viễn chinh thay De Lattre, tổng trưởng Letourneau được cử giữ chức vụ Cao uỷ, có cựu thống sứ Gautier phụ tá
 
Ngày 22/12, QĐNDVN làm tê liệt tuyến vận chuyển trên sông được coi là tuyến tiếp tế chính của Pháp. Xalăng vội dừng cuộc càn quét ở [[Bắc Ninh]], điều gấp 2 binh đoàn cơ động trở lại Ba Vì và hữu ngạn sông Đà. Ngày 29-12-51, trên đường thuộc địa số 6, một đại đội lê dương bị phục kích bất ngờ làm chết 130 người trong số 200 người. Tin thiệt hại đó báo về Pháp trong lúc Quốc hội đang bàn cãi về ngân khoản chiến phí ở Đông Dương làm những nghị sĩ chống chiến tranh lên diễn đàn, tổng trưởng Letourneau bị đả kích nặng nề.
Dòng 100:
 
===Đợt 2 (27 tháng 12 - 25 tháng 2 năm 1952)===
Ngày 6/1/1952 Xalăng quyết định rút toàn bộ lực lượng trên tuyến sông Đà, chỉ để lại cụm cứ điểm Đan Khê - Là Phù. Tất cả lực lượng rút về được tăng cường cho tuyến phòng ngự [[hòa Bình (thành phố)|thị xã Hòa Bình]] - Đường số 6, quyết định này chưa kịp thực hiện thì đợt tiến công thứ 3 của QĐNDVN bắt đầu.
 
QĐNDVN tiếp tục đánh mạnh hướng [[Sông Đà]]-[[Ba Vì (định hướng)|Ba Vì]], tập kích diệt [[quân đội Pháp]] ở các điểm cao 500 và 564; trên hướng Đường 6 tiến công các cứ điểm Đồi Mồi, Hàm Voi.
 
Đêm 29/12 trung đoàn 141 của [[sư đoàn 312, Quân đội Nhân dân Việt Nam|đại đoàn 312]] tiến công diệt điểm cao 400, 600, diệt gần 100 lính, bắt 96 (có 35 lính lê dương). QĐNDVN hy sinh 16 người, bị thương 60 người. Cũng trong đêm 29, tiêu diệt Đồi Mồi. Đêm 31 đánh chiếm cao điểm Hàm Voi, tiêu hao một trung đội Âu Phi. Những vị trí quan trọng trên đường 21 bảo vệ sườn cho tuyến thị xã Hoà Bình – Đường số 6.
 
QĐNDVN chuyển hướng tiến công chủ yếu sang đường 6 và bao vây thị xã Hoà Bình: tập kích tiêu diệt trận địa pháo và 4 vị trí [[quân đội Pháp]] ở trung tâm và ngoại vi thị xã; đánh cắt giao thông, làm tê liệt vân chuyển của [[quân đội Pháp]] trên đường 6. Trong vòng không đầy 1 giờ hai tiểu đoàn của trung đoàn 36 đã tiêu diệt gọn 4 vị trí Đồi Cháy, Đồi Dè, Khuỷu, Dậm và 1 trận địa pháo, nhưng đánh cứ điểm Pheo (xem trận Pheo, 7 tháng 1 năm 1952) và Đầm Huống không thành công.
 
Xóm Pheo, một tiền đồn cách 5&nbsp;km về phía bắc Hoà Bình do thiếu tá Roux và tiểu đoàn 2 Lê dương trấn giữ, bị trung đoàn 102 QĐNDVN tấn công. 50 khẩu [[sơn pháo]] 75 ly và [[súng không giật|pháo không giật]] của QĐNDVN nhả đạn vào đồn. Đến 1 giờ sáng thì QĐNDVN xung phong, dùng [[lựu đạn]] và mìn tràn vào các điểm phòng thủ. 700 phát trọng pháo 105 ly được các đồn Pháp bắn yểm trợ vào xung quanh đồn trong thời gian 15 phút QĐNDVN xung phong, cho đến lúc QĐNDVN tràn vào trong đồn và trận giáp la cà xảy ra, đến sáng thì QĐNDVN rút lui. Cả hai bên thiệt hại nhiều.
 
Mặc dầu thất bại trong trận tấn công Xóm Pheo, QĐNDVN cũng không rời bỏ khu vực thị xã Hoà Bình. Một mặt, QĐNDVN dùng chiến thuật ''"công đồn đả viện"'' và thường xuyên uy hiếp các đường tiếp tế thuỷ, bộ để cầm chân số lớn lính Pháp (riêng tại đường số 6, Pháp phải dùng tới 16 [[tiểu đoàn]] để bảo vệ), một mặt Việt minh mở một mặt trận khác về phía Phát Diệm, với các [[sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|đại đoàn 316]], 320, làm Pháp phải chia quân ra nhiều nơi, cạn hết quân dự trữ. Bộ chỉ huy Pháp lúng túng lo ngại.
 
Ngày 27 tháng 1, Tổng Quân uỷ họp, nhận định: ''“Theo thế chung thì muốn hay không muốn, địch cũng phải rút khỏi Hoà Bình”''. Căn cứ vào ý định của Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng Tham mưu xây dựng kế hoạch đánh quân Pháp rút chạy.
Dòng 116:
Bị bao vây, cô lập ở Hoà Bình, lại bị đánh mạnh ở trung du, đồng bằng, sáng 23-2 quân Pháp buộc phải rút khỏi Hoà Bình theo cách cuốn chiếu. 17 giờ ngày 22/2/1952, 5 tiểu đoàn Pháp ở thị xã lặng lẽ vượt sông Đà. Trung tá Ducourneau và đại tá Gilles chỉ huy cuộc triệt thoái. Hơn 1.000 dân Mường, 20.000 binh sĩ cùng các chiến cụ, đạn dược khí giới vượt qua sông, tiến về Hà Nội bằng đường số 6.
 
Đại bộ phận quân Pháp đã qua sông, chỉ còn tiểu đoàn 2 dù (2e BEP) và tiểu đoàn 3 thuộc bán lữ đoàn lê dương thứ 13 (3/13e DBLE) đang được máy bay và [[pháo|đại bác]] bảo vệ chặt chẽ, tiếp tục qua sông. Trung đoàn 36 lúc này mới phát hiện, pháo ở bến Ngọc đồng loạt bắn vào đội hình Pháp ở cả hai bên bờ sông Đà. Một chiếc ca nô bắn chìm, một số xe cơ giới bị phá huỷ, nhưng tới trưa quân Pháp vẫn qua sông. Buổi chiều, trung đoàn 209 tiến công vị trí Pheo, khi GM1 đang rút khỏi đây. Máy bay Pháp nối nhau trút bom, bảo vệ cho binh lính chạy về phía đoàn xe trên đường 6. Trận địa phòng không 12,7&nbsp;mm của QĐNDVN bắn rơi một máy bay [[F8F Hellcat]]. Ngày 24 tháng 2, quân Pháp ở Ao Trạch tiếp tục rút về Đồng Bãi, bị trung đoàn 9 Đại đoàn 304 chặn đánh một bộ phận, thiệt hại gần hai đại đội. Ngày 25 tháng 2, quân Pháp tiếp tục rút khỏi Đồng Bãi về Xuân Mai.
 
Nhìn chung, Pháp tổ chức rút quân chặt chẽ, dùng tới 30 nghìn viên đạn pháo để yểm trợ cho cuộc rút quân. QĐNDVN cũng không tổ chức tốt việc đánh [[quân đội Pháp]] rút lui nên chỉ diệt được một số, còn phần lớn [[quân đội Pháp]] chạy thoát về [[Xuân Mai]]. Sau hai ngày ba đêm, đoàn quân Pháp về đến nơi. Đoàn quân chặn hậu bị chặn đánh, thiệt hại khoảng 300 người chết và bị thương. Bộ chỉ huy Pháp mừng rỡ với sự tổn thất nhẹ như vậy.
Dòng 136:
Với thất bại ở chiến dịch Hoà Bình, tướng [[Henri Navarre]] viết rằng: ''“Chúng ta đã bị thiệt hại nặng nề về chiến lược, không thu được một kết quả quyết định nào. Chiến dịch Hoà Bình đã giam chân các binh đoàn chủ lực cơ động tinh nhuệ của ta ở xa đồng bằng trong một thời gian dài. Do đó đã tạo thế lợi cho đối phương đưa các binh đoàn chủ lực lọt vào đồng bằng hoạt động. Đối phương đã giành được thắng lợi quan trọng”''<ref>Hồi ký của Na-va: “Đông Dương hấp hối”.</ref>
 
Sau cuộc rút lui khỏi Hoà Bình, Pháp mở nhiều cuộc hành quân trong vùng đồng bằng để càn quét. Chương trình của Salan và Letourneau là quét sạch quân du kích trong khu tam giác đồng bằng, xúc tiến việc tổ chức [[quân đội Quốc gia Việt Nam]] với sự viện trợ của Mỹ, thành lập đoàn Quân thứ lưu động (GAMO) để phối hợp với quân đội tổ chức an ninh xã hội các vùng đã được càn quét, rồi trao cho thủ hiến [[Nguyễn Văn Tâm (Thủ tướng)|Nguyễn Văn Tâm]] tổ chức hành chính.
 
Tới cuối tháng giêng 1952, viện trợ Mỹ cập bến Sài gòn đã lên tới 120.000 tấn chiến cụ, trong số có 178 máy bay, 170 tàu thuỷ đủ loại, [[phương tiện chiến đấu bọc thép|xe thiết giáp]], đạn dược và dụng cụ truyền tin.
 
==Liên kết ngoài==