Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Phụng Hoàng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 11 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q1755657 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{campaignbox Vietnam War}}
'''Chiến dịch/Kế hoạch/Chương trình Phụng Hoàng/Phượng Hoàng''' ([[tiếng Anh]]: ''Phoenix Program'') (1968-1975) là chiến dịch tình báo, ám sát bí mật trong [[Chiến tranh Việt Nam]] được tiến hành bởi Tình báo [[Việt Nam Cộng hòa]] với sự phối hợp của [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ]] (CIA).<ref name="UV">Woodruff, Mark. ''Unheralded Victory''. Arlington, VA: Vandamere Press, 1999. tr 53-55</ref> Chương trình này được hoạch định với mục đích phát hiện và "vô hiệu hóa" – bắt giam, chiêu hàng, giết, hoặc kiềm chế – các cán bộ [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam]] nằm vùng, những người tuyển dụng và đào tạo cơ sở cộng sản tại các xã ấp [[Miền Nam (Việt Nam)|Miền Nam Việt Nam]], cũng đồng thời là những người hỗ trợ các nỗ lực đấu tranh vũ trang. Đầu tiên, chương trình được chỉ đạo bởi Evan J. Parker, sau đó bởi Ted Shackley cùng các cấp phó Thomas Clines, Donald Gregg và Richard Secord.
 
Tuy ban đầu chương trình được [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] khởi xướng, nhưng sau đó nó được chuyển giao cho [[Quân đội Hoa Kỳ|Quân đội Mỹ]] và [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Khi trở thành một phần của chương trình "[[Việt Nam hóa chiến tranh]]", chiến dịch này được chuyển thành một chương trình của Quân lực Việt Nam Cộng hòa với sự hỗ trợ của cố vấn quân sự Mỹ. Chiến dịch Phụng Hoàng được chính thức phê chuẩn ngày [[1 tháng 7]] năm 1968 bởi sắc lệnh của [[Tổng thống Việt Nam Cộng hòa]] [[Nguyễn Văn Thiệu]], mặc dù trước đó nó đã tồn tại không chính thức.
 
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã công bố chính thức về sự tồn tại của nó vào tháng 10 năm 1969, nhằm mục đích giành được sự chấp thuận và hợp tác rộng hơn của người dân [[Miền Nam (Việt Nam)|Miền Nam]], sau khi những hoạt động dưới quyền Gary Leroy và Karl Sherrick gây ra cái chết của 23 người chỉ trong tháng 3 năm 1969.
 
Chương trình gây ra cái chết của rất nhiều dân thường và đánh mất một phần sự ủng hộ của những người trước đó có thiện cảm với phe tham chiến chống những người [[chủ nghĩa cộng sản|cộng sản]].
 
== Bối cảnh ==
[[Tập tin:Phoenixcd.JPG|phải|khung|200px|Tờ bướm tuyên truyền của chính quyền VNCH về chiến dịch]]
Tại [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]] những năm trong [[thập niên 1960]] và đầu [[thập niên 1970]], mạng lưới chính quyền cách mạng bí mật phát triển, có ảnh hưởng rộng rãi đối với quần chúng nhân dân. Mạng lưới này là cơ sở [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Việt Cộng]] (VCI – Viet Cong infrastructure, theo cách gọi của người Mỹ), hay mạng lưới cơ sở cách mạng chỉ đạo đấu tranh chính trị tại các làng xóm [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]].
 
Mạng lưới cơ sở cách mạng cung cấp lương thực và vật dụng cho các lực lượng vũ trang địa phương hoặc các lực lượng từ các căn cứ gần biên giới; cung cấp thông tin tình báo, dẫn đường cho quân đội [[giải phóng quân|quân Giải phóng]]; động viên nhân lực cho du kích và bộ đội chủ lực vùng; huy động đóng góp của quần chúng, duy trì một dạng chính quyền thô sơ ở địa phương.
 
Hệ thống kể trên đã hoạt động ở miền Nam Việt Nam từ nhiều năm và thành thạo trong các phương pháp hoạt động bí mật. Chương trình Phụng Hoàng được chính phủ [[Việt Nam Cộng hòa]] phát triển nhằm đương đầu với hệ thống cơ sở cách mạng kể trên. Khác với các nỗ lực quân sự, Phụng Hoàng là hoạt động mang tính chiến dịch của Cảnh sát quốc gia và được chỉ đạo bởi các ủy ban Phượng Hoàng bao gồm đại diện phía dân sự và các tổ chức quân sự bao gồm cứu tế xã hội, các cơ quan tình báo và tuyên truyền. Chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] thực thi những điều luật riêng biệt áp dụng cho tội xúi giục chống đối và yêu cầu các công dân ủng hộ bằng cách cung cấp thông tin.
Dòng 36:
|}
 
Ở những vùng chính quyền Việt Nam Cộng hòa không kiểm soát được chặt chẽ thì lực lượng chủ lực hoặc du kích [[giải phóng quân|quân Giải phóng]] hoạt động mạnh. Lực lượng cộng sản tiến hành ám sát, xử bắn các công chức địa phương, những người trung thành với chính phủ Việt Nam Cộng hòa, và những người có liên quan với Mỹ.
 
Riêng năm 1969, hơn 6.000 người bị giết, hơn 1.200 người bị ám sát, và 15.000 người bị thương. Trong số những người thiệt mạng có 90 viên chức xã và xã trưởng, 240 viên chức ấp và ấp trưởng, 229 người tản cư và 4.350 thường dân.<ref>Trang 5, biên bản ghi lại phát biểu của [[William E. Colby]] tại phiên điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 17/02/1970 http://homepage.ntlworld.com/jksonc/docs/phoenix-scfr-19700217.html truy cập ngày 22/11/2009</ref>
 
Với hệ thống [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam]] nằm vùng là một đối thủ có kinh nghiệm và tổ chức chặt chẽ, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cần phải có các chuyên gia chiến tranh chính trị (''political warfare'') để đối phó. Trong hai năm 1967 và 1968, nỗ lực phối hợp tình báo (dựa chủ yếu vào các hoạt động của CIA) chống lại các cơ sở cách mạng được chủ trì bởi Tư lệnh quân đội viễn chinh Mỹ - tướng [[William Westmoreland]]. Đây là chương trình hợp tác quân sự và dân sự mang tên "Phối hợp và Khai thác tình báo" (Intelligence Coordination and Exploitation – ICEX) với nhiệm vụ là giúp đỡ và hỗ trợ chính phủ Miền Nam đương đầu với các mạng lưới cơ sở cộng sản này. Lúc đầu, chương trình này (ICEX) nhận được rất ít chú ý và ủng hộ của chính quyền Nam Việt Nam. Chỉ khoảng vài chục đối tượng của Mặt trận Dân tộc nằm vùng bị bắt giữ mỗi tháng bởi các hành động đột kích và bắt bớ chủ yếu do các đơn vị CIA.
 
{| class="wikitable" style="float:right; margin:2em; margin-top:0;"
Dòng 47:
|-
! Năm
! [[Chiêu hồi|Hồi chánh]]
! bị bắt
! bị giết
Dòng 73:
Trên giấy tờ, những cán bộ Mặt trận Dân tộc bị bắt giữ, đối xử như tội phạm hình sự, bị xử án và tù đày (hoặc hành hình), hoặc bị thuyết phục để ly khai hàng ngũ những người cộng sản và quy hàng chính phủ.<ref name="Phoenix">Spencer Tucker.''The encyclopedia of the Vietnam War: a political, social, and military history''. Santa Barbara, CA: ABC-CLIO, LLC, 2011. tr 909-910.</ref> Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều người bị giết trong các cuộc đọ súng, đột kích hoặc bị hành hình tức khắc.
 
Tới năm 1969, khi chương trình Phụng Hoàng mất đi tính bí mật và thu hút sự chú ý của báo chí, [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] dần rút khỏi chương trình này. Các tổ chức bí mật của Mỹ được thế chân bởi các cố vấn tình báo quân sự Mỹ (quá trình này phát triển cùng tiến trình "[[Chiến tranh Việt Nam#Việt Nam hóa chiến tranh|Việt Nam hóa chiến tranh]]") và chú trọng vào huấn luyện, tổ chức nhân viên chính quyền Việt Nam Cộng hòa để duy trì áp lực với hệ thống cơ sở của Mặt trận Dân tộc. Các lực lượng chủ yếu được giao phó là Bảo an và Cảnh sát đặc biệt. Tháng 1 năm 1970, có khoảng 450 cố vấn quân sự Mỹ hỗ trợ chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong khuôn khổ chương trình Phụng Hoàng. Sang năm 1972 thì Chiến dịch Phụng Hoàng được giao cho Cảnh sát Quốc gia điều hành. Cũng năm đó, cố vấn Mỹ rút khỏi vị trí trong Kế hoạch Phụng Hoàng. Một số rời sang các chương trình bình định nông thôn. Cho đến thời điểm quân đội Mỹ rút khỏi [[Việt Nam]] năm 1973, kết quả của chương trình Phụng Hoàng không đều khắp thậm chí khá khiêm tốn. Điều này là do hoàn cảnh nhiều hơn là do không còn thích hợp: hình thái chiến tranh đã thay đổi và mạng lưới cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không còn phổ biến nữa. Phần lớn cán bộ nằm vùng được đưa ra vùng giải phóng.
 
Theo phân tích khác thì Chiến dịch Phụng Hoàng là một phương cách hữu hiệu để diệt trừ ổ cán bộ nằm vùng, nên khi lực lượng cộng sản mở [[Chiến dịch Xuân - Hè 1972]] và ba năm sau, năm [[1975]] thì nguồn nhân lực không còn là cư dân địa phương nữa mà Miền Bắc phải đưa người vào chiến trường miền Nam tham chiến vì đơn vị cộng sản nằm vùng trong Nam đã bị vô hiệu hóa.<ref>[http://www.globalsecurity.org/intell/ops/vietnam-phoenix.htm Phoenix 1967-1971]</ref>
Dòng 89:
Có ý kiến còn cho rằng, chương trình này gây mất lòng dân chúng hơn bất kỳ hành động nào khác của quân đội viễn chinh Mỹ và chính quyền Sài Gòn.<ref>[http://www.cuttingedge.org/news/n1996.cfm Nhìn lại Chiến dịch Phượng Hoàng, một chương trình tương tự ở Iraq?]</ref>
 
Chương trình Phụng Hoàng thường được gọi bằng cái tên "chiến dịch ám sát", và bị chỉ trích là một ví dụ tiêu biểu của những hành động tàn bạo xâm phạm nhân quyền mà [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] và các tổ chức của nó đã tiến hành. Theo thống kê của Mỹ, trong năm 1969, 19.534 người bị coi là Việt Cộng đã bị ''"vô hiệu hóa"'' (từ sử dụng trong chương trình Phụng Hoàng): 6.187 người bị giết, 8.515 bị bắt, 4.832 người về theo chương trình [[chiêu hồi]]. Tới năm 1971, [[William Colby]] đưa ra con số người bị giết trong chương trình này là 20.857. Con số của chính quyền Sài Gòn còn cao hơn rất nhiều: 40.994<ref>[http://www.serendipity.li/cia/operation_phoenix.htm CIA và chiến dịch Phượng Hoàng]</ref>. Cá biệt, một nhóm dưới sự chỉ đạo của Karl Sherrick và Gary Leroy giết tới 23 người trong một tháng. Các đơn vị của hai người này chịu trách nhiệm về 200 cái chết trong các đợt hành động của họ. Tuy nhiên, chỉ có dưới 10% số nạn nhân của chương trình Phượng Hoàng đã thực sự là mục tiêu của chương trình này. Phần còn lại bị gán là cơ sở của Mặt trận Dân tộc sau khi họ đã bị giết hại. Các nỗ lực của các tỉnh trưởng nhằm đạt chỉ tiêu giao phó cũng dẫn đến sự phóng đại con số thống kê bằng cách tính cả các vụ bắt giữ người không theo Mặt trận Dân tộc, bắt giữ nhiều lần một đối tượng, và đưa cả số người chết từ các hoạt động quân sự vào kết quả chương trình Phụng Hoàng.
 
Theo báo cáo của Hoa Kỳ, tổng kết thời gian 1968-1972, có 26.000 quân đối phương bị giết, 34.000 bị bắt, trong số đó 22.000 quy hàng.<ref name="Phoenix"/>
Dòng 95:
Ngoài ra, cơ sở để định đoạt một đối tượng có phải là du kích nằm vùng hay không cũng rất thiếu cụ thể. Trong nhiều trường hợp, người này vu khống người kia là Việt Cộng để mượn tay quân đội Mỹ giết kẻ mình thù oán.
 
Dù còn nhiều tranh cãi, chương trình này cũng đạt được một số hiệu quả. Ông [[Nguyễn Cơ Thạch]], người sau này là Phó thủ tướng nước [[Việt Nam]] thống nhất, phát biểu sau chiến tranh rằng chương trình Phụng Hoàng đã làm suy yếu hệ thống cơ sở cách mạng, góp phần tiêu diệt và phá hoại đến 95% cơ sở cách mạng ở một số khu vực tại [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]].
 
Một ý kiến cho rằng kết quả của chương trình Phụng Hoàng đã giúp an ninh nội bộ của Miền Nam ít nghiêm trọng – Miền Nam sau này được giải phóng bằng sự tấn công của bộ đội chủ lực chứ không phải do nội dậy giành chính quyền. Tuy nhiên điều này cần được xem xét kỹ lại vì thực tế quân Giải phóng thay đổi hình thái đấu tranh từ nổi dậy sang hoạt động quân sự thuần túy là quyết định rút ra từ kết quả của [[Sự kiện Tết Mậu Thân|Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân]], cùng với cán cân lực lượng đang thay đổi rõ rệt. Khi chủ lực của quân Giải phóng ngày càng lớn mạnh, trang bị tốt hơn thì việc đánh du kích không còn là ưu tiên hàng đầu nữa.