Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thảm họa Bhopal”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 48 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q129029 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 5:
25 năm sau vụ rò rỉ, 390 tấn các chất hóa học độc hại bị bỏ lại tại nhà máy của UCIL tiếp tục rò rỉ và gây ô nhiễm nguồn nước ngầm của khu vực, ảnh hưởng đến hàng ngàn cư dân [[Bhopal]], những người phụ thuộc vào nguồn nước ngầm, mặc dù có những tranh cãi về việc có hay không những chất hóa học vẫn được lưu giữ tại khu vực này và những mỗi nguy hiểm đến sức khỏe con người.
 
Hiện có một vài phiên tòa dân sự và hình sự liên quan đến thảm họa diễn ra ở toà án [[Manhattan]] và tòa án Bhopal chống lại [[Union Carbide]], hiện được sở hữu bởi Dow Chemical Company, cùng với lệnh bắt giữ [[Warren Anderson]], [[Tổng giám đốc điều hành|CEO]] của Union Carbide tại thời điểm xảy ra thảm họa. Đến nay vẫn chưa có ai bị truy tố.
 
== Bối cảnh và nguyên nhân ==
Dòng 14:
Nó gây ra sự thoát khẩn cấp để giảm áp suất thùng chứa MIC, thải ra một lượng lớn các khí ga độc vào không khí. Tốc độ phản ứng tăng lên bởi sự xuất hiện của thép trong những đường ống làm bằng thép không rỉ đang bị ăn mòn. Một hỗn hợp các khí ga độc tràn ra thành phố [[Bhopal]], gây ra sư hoảng loạn khi mọi người thức dậy với cảm giác cháy trong phổi. Bởi ảnh hưởng của khí gas, hàng ngàn người chết ngay sau đó và rất nhiều người phải chịu đau đớn trong sự hoảng loạn.
 
Các giả thiết về việc làm thế nào nước có thể vào được thùng chúa cũng rất khác nhau. Tại thời điểm đó, công nhân dang dọn vệ sinh đường ống bằng nước, một vài người cho rằng đó là bởi sự yếu kém về bảo trì và sự rò rỉ ở các van, đó là lý do nước rò rỉ vào thùng chứa 610. Tháng 12 năm 1985, một bài báo của New York Times cho rằng: theo những người quản lý nhà máy UCIL, giả thiết về đường nước chảy vào đã được kiểm tra dưới sự hiện diện của những nhân viên điều tra [[Cục Điều tra Liên bang|FBI]] và đã được chứng minh là vô lý. UCC cũng cho rằng con đường đó là không thể, và đó là một hành động phá hoại của nhưng công nhân "bất bình", họ đã trực tiếp đổ nước vào bình chứa. Dù vậy, nhóm điều tra của công ty không tìm thấy bất cứ bằng chứng cần thiết nào. Những báo cáo năm 1985 đã đưa ra một bức tranh về việc điều gì đã dẫn đến thảm họa và thảm họa diễn ra như thế nào, mặc dù chúng khác nhau ở vài chi tiết.
 
Những lý do dẫn đến vụ rò rỉ khí ga khổng lồ này bao gồm:
Dòng 57:
* Thiết bị cảnh báo bình chứa MIC đã không hoạt động trong 4 năm.
* Nhà máy chỉ có một hệ thống dự phòng thủ công, không phải là hệ thống 4 giai đoạn được sử dụng ở [[Hoa Kỳ]]
* Tháp loe và máy lọc khí đã ngừng hoạt động 5 tháng trước khi thảm họa xảy ra. Máy lọc khí do vậy đã không xử lý những khí thoát với [[natri hiđroxit|sodium hydroxide]] ([[natri hiđroxit|xút ăn da]]), giảm nồng độ xuống mức an toàn. Thậm chí nếu như máy lọc khí làm việc, theo những nghiên cứu về hậu quả của thảm họa, áp xuất lớn nhất mà máy có thể xử lý chỉ bằng 1/4 áp xuất trong vụ tai nạn. Cho nên, tháp loe đã được thiết kế không hợp lý và chỉ có thể xử lý 1/4 lượng khí rò rỉ năm 1984.
* Để giảm chi phí năng lượng, hệ thống làm lạnh, vốn được thiết kế để ngăn sự bay hơi của MIC, đã bị tắt. MIC được giữ ở nhiệt độ 20 độ C ([[nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn|nhiệt độ phòng]]), thay vì 4.5 độ C như trong tài liệu hướng dẫn. Một phần chất tải lạnh đã được sử dụng cho mục đích khác.
* Lò hơi, được sự dụng để làm sạch đường ống, đã ngừng hoạt động không rõ nguyên do.
* Những tấm chắn vốn có thể ngăn nước từ những đường ống đang được làm sạch rò rỉ vào trong thùng chứa MIC qua những van hỏng đã không được lắp đặt.
Dòng 73:
* Tháng 2 năm 1982, 18 công nhân bị ảnh hưởng bởi một vụ rò rỉ khí MIC.
* Tháng 8 năm 1982, một kỹ sư hóa học bị bỏng 30% cơ thể do tiếp xúc với MIC ở trạng thái lỏng.
* Tháng 9 năm 1982, đã xảy ra một vụ rò rỉ MIC, [[methylcarbaryl chloride]], [[clorofom|chloroform]] và [[axit hydrochloric]]. Trong nỗ lực ngăn chặn vụ rò rỉ, một công nhân đã bị bỏng hóa nặng, 2 người khác bị phơi nhiễm khí độc ở mức độ trầm trọng.
* Trong 2 năm 1983, 1984, tại nhà máy đã xảy ra các vụ rò rỉ (theo thứ tự): MIC, [[clo|chlorine]], [[monomethylamine]], [[phosgene]], và [[cacbon tetraclorua|carbon tetrachloride]]
* Những báo cáo được đưa ra vài tháng trước vụ tai nạn bởi các nhà khoa học thuộc tập đoàn Union Carbide cảnh báo về khả năng xảy ra một vụ rò rỉ gần như chính xác với những gì đã xảy ra ở Bhopal. Bản báo cáo đó đã bị lờ đi và không bao giờ đến được bàn những nhân viên cấp cao.
* Union Carbide đã được cảnh báo trước đó bởi những chuyên gia Mỹ đến thăm nhà máy năm 1981 về khả năng sảy ra một phản ứng tỏa nhiệt trong những thùng chứa MIC; nhà chức trách địa phương cũng cảnh báo công ty về những vụ tai nạn xảy ra từ 1979. Và một lần nữa, người ta lại phớt lờ những cảnh báo đó.
Dòng 81:
== Vụ rò rỉ ==
* Tháng 11-1984, tất cả các hệ thống an toàn của nhà máy đều không làm việc. Rất nhiều van và đường ống ở trong tình trạng rất xấu. Bình chứa 610 chứa 42 tấn MIC, nhiều hơn nhiều so với quy định an toàn cho phép.
* Trong đêm 2-3 tháng 12, một lượng lớn nước tràn vào bình chứa 610. Một phản ứng tỏa nhiệt xảy ra, tốc độ phản ứng tăng lên bởi các tạp chất, nhiệt độ cao và các nhân tố khác. Phản ứng gây nên sự tăng nhiệt độ bên trong thùng chứa lên trên 200[[độ Celsius|°C]] (400[[độ Fahrenheit|°F]]). Để giảm áp xuất bình chứa, một lượng lớn hơi MIC được xả ra ngoài. Sự hiện diện của sắt từ những đường ống làm bằng thép không rỉ bị ăn mòn cũng làm tăng tốc độ phản ứng.
 
* Những công nhân trước đó đã làm sạch đường ống bằng nước. Họ không được thông báo phải sử dụng một tấm cách ly nước. Vì lý do này, và tình trạng bảo trì tồi tệ, những công nhân cho rằng đó là cách nước lọt vào bình chứa MIC.
Dòng 111:
=== Ảnh hưởng ngắn hạn ===
 
* Ngoài MIC, khí ga còn có thể chứa [[Phosgene]] COCl<sub>2</sub>, [[Hidro Xianua]] HCN, [[Cacbon mônôxít|Mônôxít cacbon]] CO, [[hiđrô clorua|clorua hiđrô]] HCl, các [[Ôxít nitơ]], [[etyl amin|ethylamine]] và khí [[Cacbon điôxít]], sinh ra trong bình chứa hoặc ngoài không khí.
* khí gas là hỗn hợp chủ yếu của những chất nặng hơn không khí, chúng là là mặt đất và lan rộng ra cộng đồng dân cư xung quanh. Những tác động ban đầu bao gồm ho, nôn mửa, tấy mắt nghiêm trọng, cảm giác khó thở. Những người bị đánh thức bởi các triệu chứng trên tìm cách tránh xa nhà máy. Phần lớn họ vừa chạy vừa thở, một số sử dụng xe. Trẻ em và những người vóc dáng nhỏ hít phải khí ga nồng độ đậm đặc hơn. Nhiều người bị dẫm đạp khi chạy trốn.
* Tính đến sáng hôm đó, hàng ngàn người đã chết. 170,000 người được điều trị tại bệnh viện và phòng khám dã chiến. 2,000 con trâu, dê và các loại động vật khác đã được thu gom và đem chôn. Chỉ trong vài ngày, lá cây úa vàng và rụng. Các nguồn cung cấp, đặc biệt là thức ăn, trở nên khan hiếm bởi nỗi lo an toàn của những người cung cấp. Đánh cá cũng bị cấm, làm cho sự thiếu hụt nguồn cung trầm trọng hơn.