Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Krym”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 63 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q254106 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 5:
|caption=Tranh của [[Franz Roubaud]]<br />''Cuộc bao vây [[Sevastopol]]''.
|date=1854–1856
|place=[[Krym|Bán đảo Krym]],<br /> [[Balkan]],<br /> [[Biển Đen]],<br /> [[Biển Baltic|Biển Ban Tích]],<br /> [[Thái Bình Dương]]
|casus=
|territory=
|result=Đồng minh chiến thắng, [[Hoà ước Paris (1856)]]
|combatant1=Đồng Minh:<br />{{Cờ|Pháp}} [[Pháp]]<br />[[Tập tin:Ottoman Flag.svg|22px]] [[Đế quốc Ottoman]]<br />{{Cờ|Liên hiệp Anh}} [[Đế quốc Anh]]<br />{{flagicon|Italy|1861-state}} [[Vương quốc Sardigna|Vương quốc Sardinia]]
|combatant2={{Cờ|Nga}} [[Đế quốc Nga]]
|commander1={{Cờ|Pháp}} [[Napoléon III của Pháp|Napoléon III]]<br />{{Cờ|Pháp}} [[Armand Jacques Leroy de Saint-Arnaud]]{{KIA}}<br />{{Cờ|Pháp}} [[François Certain th Canrobert]]<br />[[Tập tin:Ottoman Flag.svg|22px]] [[Abdül Mecid I|Abdul Mejid I]]<br />[[Tập tin:Ottoman Flag.svg|22px]] [[Abdülkerim Nadir Pasha]]<br />[[Tập tin:Ottoman Flag.svg|22px]] [[Omar Pasha]]<br />{{Cờ|Liên hiệp Anh}} [[James Brudenell, Bá tước Cardigan thứ 7]]<br />{{Cờ|Liên hiệp Anh}} [[FitzRoy Somerset, Nam tước Ragdan thứ nhất]]{{KIA}}<br />{{Cờ|Liên hiệp Anh}} [[Edmund Lyons, Nam tước Lyons thứ nhất]]<br />{{flagicon|Italy|1861-state}} [[Alfonso La Marmora]]
|commander2={{Cờ|Nga}} [[Nikolai I của Nga|Nikolai I]]{{KIA}}<br />{{Cờ|Nga}} [[Aleksandr II của Nga|Aleksandr II]]<br />{{Cờ|Nga}} [[Mikhail Gortchakov]]<br />{{Cờ|Nga}} [[Ivan Paskevich]]{{KIA}}<br />{{Cờ|Nga}} [[Pavel Nakhimov]]{{KIA}}<br />{{Cờ|Nga}} [[Eduard Totleben]]<br />{{Cờ|Nga}} [[Mikhail Semyonovich Vorontsov]]<br />{{Cờ|Nga}} [[Aleksandr Sergeyeich Menshikov]]<br />{{Cờ|Nga}} [[Vasily Zavoyko]]
|strength1=300.000 lính Thổ<br />400.000 lính Pháp<br />250.000 lính Anh<br />10.000 lính Sardinia
Dòng 20:
}}
{{Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ}}
'''Chiến tranh Krym''' (tiếng Anh ''Crimean War'') bắt đầu từ năm [[1853]] và chấm dứt năm [[1856]], giữa hai lực lượng quân sự [[châu Âu]], phe đồng minh gồm [[ĐệĐế nhịchế đếthứ chế (Pháp)hai|Đế quốc Pháp]], [[Đế quốc Anh]], [[Đế quốc Ottoman|Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ]] và [[Vương quốc SardiniaSardigna|Sardinia]] chống lại [[Đế quốc Nga]]. Cuộc chiến tranh này còn được người đương thời gọi là '''Chiến tranh nước Nga'''.<ref name="sweetman10">John Sweetman, ''The Crimean War: 1854-1856'', trang 10</ref> Phần lớn các trận chiến xảy ra trên [[Krym|bán đảo Krym]], những trận nhỏ hơn tại miền tây [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và vùng [[biển Baltic|biển Ban Tích]]. Một trong những lý do gây ra cuộc chiến là việc chính phủ [[Sa hoàng|Nga hoàng]] bảo hộ cho các thần dân [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính Thống giáo]] nằm dưới ách thống trị của Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ.<ref name="Radzinsky94den95"/> Cuộc chiến tranh tàn khốc này mở đầu với việc Thổ Nhĩ Kỳ tuyên chiến với Nga vào năm 1853, với trận đánh tại [[Trận Oltenitza|Oltenitza]] cùng năm đó, khi một cuộc tiến công của quân Nga bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đập tan. Nhưng sau đó, trong trận [[thủy chiến Sinope]] hải quân Nga đánh bại hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, quân Thổ Nhĩ Kỳ cũng chọc thủng được vòng vây của quân Nga ở [[Cuộc vây hãm Silistria|Silistria]]. Sau đó Anh và Pháp lần lượt tuyên chiến với Nga.<ref>John Sweetman, ''The Crimean War: 1854-1856'', trang 91</ref><ref>John Sweetman, ''The Crimean War: 1854-1856'', các trang 20-31.</ref><ref name="Sweetman7den16"/>
 
Chiến tranh vùng Krym được xem là chiến tranh hiện đại đầu tiên trong lịch sử, trong đó kỹ thuật quân sự có phần tân tiến hơn những cuộc chiến tranh trước và thay đổi hình thức của các cuộc chiến tranh sau đó<ref name="ReferenceB">''Crimea: The Great Crimean War, 1854-1856'' Trevor Royle.</ref>. Cuộc công kích anh dũng của Tiểu Lữ đoàn Anh Quốc nhằm vào quân Nga vào năm [[1854]] tuy thất bại, nhưng trở thành biểu tượng của tinh thần trách nhiệm cũng như kỷ cương cao.<ref name="sweetman10"/> Cuộc đấu tranh bảo vệ [[Cuộc vây hãm Sevastopol|Sevastopol]] ([[1855]]) của quân Nga trước liên quân Anh - Thổ - pháp cũng vậy, tuy là thất bại của Quân đội Nga nhưng được xem là một chiến thắng về tinh thần của họ.<ref>Olga Kulibin Svir, ''Let us understand Russia:
a short outline of Russian history'', trang 104</ref> Vào năm [[1856]], các nước Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia đã giành được chiến thắng.<ref name="Sweetman7den16">John Sweetman, ''The Crimean War: 1854-1856'', các trang 7-16.</ref> Quân đội Nga - đội quân tinh nhuệ nhất của [[châu Âu]] trong con mắt của Nga hoàng [[Nikolai I của Nga|Nikolai I]] - đã đại bại.<ref name="Radzinsky94den95">Edvard Radzinsky, ''Alexander II: The Last Great Tsar'', các trang 94-95.</ref> Nước Nga bị mất chủ quyền ở biển Đen - một thành quả của [[Nữ vương|Nữ hoàng]] [[Ekaterina II của Nga|Ekaterina II Đại Đế]] năm xưa.<ref>Edvard Radzinsky, ''Alexander II: The Last Great Tsar'', trang 107</ref>
 
== Bối cảnh ==
Dòng 34:
[[Tập tin:Franz Xaver Winterhalter Napoleon III.jpg|phải|nhỏ|[[Napoléon III]] - Hoàng đế Pháp (1852 - 1870)]]
 
Tuy Anh và Pháp tuyên chiến với Nga vào ngày [[28 tháng 3]] năm [[1854]], xích mích giữa hai phe xảy ra từ cuộc đảo chính năm [[1851]] tại Pháp. Hoàng đế nước Pháp là [[Napoléon III của Pháp|Napoléon III]] lên ngôi và yêu cầu Đế quốc Ottoman phải công nhận Pháp có chủ quyền đối với vùng đất thánh (xứ [[Do Thái]] hay [[Israel]] ngày nay)<ref name="ReferenceB"/>.
 
Nga buộc Ottoman phải khước từ điều kiện của Pháp, đồng thời công nhận Nga là thế lực bảo vệ [[Công giáo]] tại Ottoman. Napoléon III lập tức đưa chiến hạm ''Charlemagne'' vào [[biển Baltic|biển Ban Tích]], coi thường hiệp ước hàng hải khu vực<ref>''Crimea: The Great Crimean War, 1854-1856'' Trevor Royle</ref>. Sultan Ottoman là [[Abdül Mecid I|Abdul Mejid I]] theo Pháp, công nhận Pháp và Giáo hội [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo Rôma]] có quyền lực cao nhất của Công giáo trong vùng đất thánh, và là nước bảo hộ cho giáo dân khắp nơi. Quyền hành này trước đó thuộc Giáo hội [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]] [[Hy Lạp]]<ref name="ReferenceB"/>.
[[Hoàng đế]] [[Nikolai I của Nga|Nikolai I]] đưa quân đoàn bộ binh số 4 và 5 ra sông [[Sông Donau|Danube]] diễn binh dằn mặt và cho bộ trưởng ngoại giao là Công tước [[Karl Nesselrode]] sang điều đình với triều đình Ottoman. Tuy nhiên Nga cũng muốn hòa hoãn với Anh và Pháp, chủ ý rằng cuộc tranh cãi chỉ là giữa Nga và Ottoman, không liên hệ gì đến Anh và Pháp. Nga muốn ngầm tránh tạo cơ hội cho Anh và Pháp hợp binh nhau chống lại mình.
 
Nikolai tiếp tục trấn an Tây Âu rằng Nga đã ngưng bành trướng, và vụ lộn xộn tại Đế quốc Ottoman chỉ là chuyện tôn giáo địa phương mà thôi. Kế đến, hoàng đế Nga gửi sứ giả [[Aleksandr Sergeyevich Menshikov]] sang Ottoman đòi ký hiệp ước riêng rằng nếu Sultan Abdul Mejid không đủ khả năng bảo vệ giáo hội và giáo dân Công giáo thì Nga có quyền vào giúp. Menshikov đi tàu lớn vào cảng [[Porte]] và lập tức kết tội Abdul Mejid là thông đồng với Pháp, và đòi thay đổi các nhân viên cao cấp trong chính quyền Ottoman.
Dòng 45:
=== Những vụ xung đột đầu tiên ===
[[Tập tin:Battle of Sinop.jpg|nhỏ|phải|250px|''Chiến hạm Nga bắn chìm tầu của quân Thổ Ottoman tại Sinope'' - Tranh [[Ivan Aivazovsky]]]]
[[Thủ tướng Anh]] [[George Hamilton-Gordon]] gửi [[Stratford Canning]] sang khuyên sultan Abdul Mejid I của Ottoman bác bỏ hiệp ước với Nga. Khi hoàng đế Nga hay tin Menshikov làm hỏng chuyện liền viện cớ thay mặt sultan Ottoman để giải quyết vấn để tôn giáo, kéo quân vào vùng [[Công quốc Moldavia|Moldavia]] và [[Românească|Wallachia]] thuộc miền đông châu Âu. Khu vực này tuy thuộc Ottoman nhưng với nhiều giáo dân Chính Thống giáo, lâu nay vẫn nằm dưới quyền bảo hộ của Nga. Hoàng đế Nga hy vọng những cường quốc châu Âu, nhất là [[Đế quốc Áo]] là nước láng giềng, sẽ không phản đối việc Nga xâm chiếm các lãnh thổ thuộc Ottoman này. Chính phủ Anh phản ứng đưa hạm đội tiếp ứng cho hải quân Pháp tại eo biển [[Dardanéllia|Dardanelles]] (đường biển nối biển Đen và Địa Trung Hải phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ). Thế lực quân sự châu Âu lúc này cũng đang mong hòa giải, chỉ biểu dương quân lực chứ chưa muốn gây chiến. Đại diện chính phủ 4 nước lớn [[Anh]], [[Pháp]], [[Áo]] và [[Phổ]] sau đó họp mặt tại [[Viên]] viết thư giảng hòa giữa [[Nga]] và [[Đế quốc Ottoman|Ottoman]]. Nga chấp thuận các điều kiện trong thư nhưng Ottoman từ chối. Khi Anh, Pháp và Áo đề nghị sửa lại các điền kiện thì Nga lại phản đối. Tuy Áo và Phổ muốn tiếp tục thương lượng, Anh và Pháp cho rằng Nga ngoan cố. [[Sultan]] Abdul Mejid I, khi thấy thương lượng không xong bèn kéo quân ra đánh quân Nga đang đóng tại sông Danube.
 
Ngày [[30 tháng 11]] năm [[1853]] hoàng đế Nikolai trả miếng đem chiến hạm đến bắn tan tành đoàn tàu chiến của Ottoman đang neo tại cảng Sinope (Thổ Nhĩ Kỳ). Hoàng đế Nga cũng không chịu rút quân ra khỏi hai lãnh thổ khu vực sông Danube. Pháp và Anh chính thức tuyên chiến với Nga để ủng hộ Ottoman.
Dòng 63:
=== Bao vây Sevastopol ===
[[Tập tin:Fall of Sevastopol.jpg|nhỏ|phải|250px|Sevastopol thất thủ<br />Quân Pháp và Nga đánh giáp lá cà]]
Ngày [[17 tháng 10]] năm [[1854]], quân Anh-Pháp đổ bộ lên bán đảo Crimea bao vây thủ phủ [[Sevastopol]] là căn cứ chính của hạm đội Đế quốc Nga tại [[Biển Đen]] với mục tiêu là ngăn chặn không cho chiến hạm Nga vào Địa Trung Hải. Trên đường tới [[Sevastopol]] liên quân gặp một đạo quân Nga đang đóng trên các điểm cao tại [[Alma]] và mau chóng đánh tan đạo quân này. Dù vậy chiến thắng ở Alma cho thấy Liên quân có ưu thế vượt trội về [[công nghệ|kỹ thuật]] hơn là kỷ luật hay tài thao lược.<ref>Lịch sử Chiến tranh-Geofrey Parker- trang 276</ref>
 
[[Tập tin:Robert Gibb - The Thin Red Line.jpg|nhỏ|250px|Binh sĩ người [[Scotland]] của [[Anh]] đánh bại cuộc tấn công của [[kỵ binh]] [[Nga]]]]
Dòng 72:
 
=== Chiến trường biển Ban Tích ===
Những trận đánh ở Crimea được nói đến nhiều, trong khi chiến cuộc trên biển Ban Tích thường ít được nhắc tới mặc dầu xảy ra gần thủ đô Nga [[Sankt-Peterburg|Sankt Peterburg]]. Lúc đầu các phe tham chiến bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Hải quân Nga tuy kém lực lượng nhưng lại đóng trú quanh những khu phòng thủ kiên cố như đồn [[Kronstadt]]. Bên kia thì Đề đốc Anh là [[Charles Napier]] và Đề đốc Pháp là [[Parseval-Deschènes]] lại ngại tấn công, và chỉ có thể ngăn chặn các tàu buôn Nga và công kích các đồn phòng thủ nhỏ của Nga dọc bờ biển [[Phần Lan]]. Anh-Pháp tấn công và tiêu diệt đồn [[Bomarsund]] và [[Slava]] nhưng ở các đồn khác lại bị đánh bật ra.
 
[[Tập tin:Sveaborg bombed.jpg|nhỏ|250px|phải|[[Bomarsund]] bị dội bom]]
Dòng 87:
 
=== Thái Bình Dương ===
Tranh chấp giữa các đế quốc châu Âu cũng diễn ra ở [[Thái Bình Dương]]. Hạm đội Anh-Pháp do Đề đốc [[David Price]] và [[Febrier-Despointes]] chỉ huy bao vây đoàn tàu chiến Nga do Đề đốc [[Yevfimy Vasilyevich Putyatin]] chỉ huy tại [[Petropavlovsk]] thuộc bán đảo [[Bán đảo Kamchatka|Kamchatka]]. Tháng 9 năm [[1854]], sau khi dùng súng từ chiếm hạm bắn nát thành phố, hơn 800 quân lính Anh-Pháp đổ bộ nhưng bị phản kích mãnh liệt và phải rút lui, chịu thiệt hại nặng nề. Đến mùa xuân năm [[1855]], quân Nga rút lui khi quân đồng mình đem tiếp viện đến tấn công lần nữa.
 
=== Ý ủng hộ Đồng minh ===
Trong khi hô hào phong trào thống nhất nước [[Ý]], [[Camillo Benso]] nghe lời [[Victor Emmanuel II của Sardinia|Victor Emmanuel II]] gởi quân lính theo ủng hộ Anh-Pháp. Mục đích của Camillo Benso là vuốt ve Pháp để tăng thế lực cho khu vực [[Piemonte|Piedmont]] của Ý, và qua đó có thể Piedmont được hội nhập vào nước Ý thống nhất.
 
=== Chiến tranh kết thúc ===
Dòng 97:
 
== Hậu quả ==
Hóa ước Paris được tôn trọng đến năm [[1871]] thì Pháp bị [[Đế quốc Đức]] đánh bại ([[Chiến tranh Pháp-Phổ|Chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871)]]), hoàng đế Pháp là Napoléon III bị truất phế và chính phủ [[Đệ tam Cộng hòa Pháp]] ra đời.
 
Nga lợi dụng tình thế và dựa theo ủng hộ của thủ tướng Đức [[Otto von Bismarck]] tái thiết căn cứ hải quân Nga tại biển Đen, không tuân theo quy ước hàng hải đã ký tại Paris.
Dòng 120:
|align=left|'''[[Pháp]]''' ||36 070 000 || 309 268 ||10 240 || 39 818 ||11 750 || 75 375 ||
|-
|align=left|'''[[Vương quốc Sardigna|Vương quốc Sardinia]]''' ||4 350 000 || 21 000 || 12 ||167 || 16 || 2 166||
|-
|align=left|'''[[Đế quốc Ottoman]]''' || 35 000 000 || 165 000 || 10 000 || || 10 800 ||24 500 ||