Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thập niên mất mát (Nhật Bản)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q1141122 Addbot |
n Robot: Sửa đổi hướng |
||
Dòng 2:
[[Tập tin:Japan real GDP growth rate.png|nhỏ|phải|300px|Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm của Nhật Bản trong thập kỷ mất mát so với các thời kỳ trước.]]
[[Tập tin:JPGNPpercapitagr.gif|nhỏ|phải|300px|Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người ở Nhật Bản trong thập kỷ mất mát so với các thời kỳ trước.]]
'''Thập kỷ mất mát''' ([[tiếng Nhật]]: 失われた10年 - ''ushinawareta jūnen'') là tên gọi thời kỳ trì trệ kinh tế kéo dài của [[Nhật Bản]] suốt thập kỷ 1990. Sau khi [[bong bóng tài sản (Nhật Bản)|bong bóng tài sản]] vỡ vào những năm 1990-1991, tốc độ [[tăng trưởng kinh tế]] của Nhật Bản thấp hẳn đi. Bình quân hàng năm trong suốt thập niên 1990, [[tổng sản phẩm nội địa|tổng sản phẩm quốc nội]] thực tế của Nhật Bản lẫn [[tổng sản lượng quốc gia|tổng sản phẩm quốc dân]] bình quân đầu người chỉ tăng 0,5%, thấp hơn so với hầu hết [[nước công nghiệp|các nước công nghiệp]] tiên tiến khác. Tỷ lệ [[thất nghiệp]] gia tăng nhanh qua từng năm.
===Năng suất lao động giảm===
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của [[Tổng sản phẩm nội địa|GDP]] trên đầu người của Nhật Bản giảm xuống mức thấp trong những năm 1990 có thể là do mức tăng của [[năng suất tổng nhân tố]] (TFP) giảm.<ref name="HayashiPrescott">Hayashi, Fumio and [[Prescott, Edward C.]] (2002), "The 1990s in Japan: A Lost Decade," ''Review of Economic Dynamics'', vol. 5, no. 1, pp. 206-235.</ref> Sở dĩ mức tăng của TFP ở Nhật Bản thời kỳ 1991-2000 lại giảm mạnh là do chính sách hỗ trợ các [[doanh nghiệp]] hoạt động thiếu hiệu quả. Việc này khiến cho các nhà sản xuất thiếu hiệu quả lại sản xuất được một phần sản lượng nhiều thêm. Chính sách này còn hạn chế [[đầu tư]] tăng năng suất.<ref name="HayashiPrescott" /> Từ khi Nhật Bản thực hiện Các biện pháp tạm thời ổn định các ngành đặc biệt khó khăn vào năm 1988, ngay năm đó mức tăng TFP chỉ ở mức vô cùng thấp 0,64%. Ba năm trước đó, mức tăng TFP là 2,5%/năm, thế mà sáu năm sau đó, mức tăng chỉ còn là 2,18%/năm.<ref>Peck, M. J., Levin R. C. and Goto A. (1988), "Picking Losers: Public Policy Toward Declining Industries in Japan," in J. B. Shoven, ed. (1998), ''Government Policy Towards Industry in the United States and Japan'', Cambridge: Cambridge University Press, pp. 165-239.</ref> [[Năng suất lao động]] giảm còn có thể do phân bổ [[nguồn lực (kinh tế học)|nguồn lực]] giữa các ngành thiếu hợp lý - nghĩa là các ngành có tiềm năng tăng trưởng mạnh lại không được đầu tư đúng mức.<ref name="Miyagawa2003">宮川努 (2003) 「「失われた10年」と産業構造の転換」」 岩田・宮川[編] 『失われた10 年の真因は何か』 東洋経済新報社。</ref> Còn nguyên nhân khiến có sự không hợp lý trong phân bổ nguồn lực giữa các ngành là [[
===Giảm số giờ lao động===
Dòng 17:
Nợ đọng làm cho chức năng [[phân bổ nguồn lực]] bị bóp méo qua nhiều con đường. Cho vay thêm khiến cho nguồn tài chính bị điều chỉnh về khu vực không có hiệu suất, góp phần giữ lao động tại khu vực này, trong khi đó những khu vực có hiệu suất và những ngành nghề mới không được phân bổ đầy đủ nguồn lực tài chính và lao động nên gặp khó khăn trong phát triển hoạt động của mình. Những khách hàng sống dở chết dở vẫn được các ngân hàng giúp duy trì sự sống, nên họ có điều kiện hạ giá bán sản phẩm làm ảnh hưởng đến giá thị trường, tăng lương cho lao động mặc dù năng suất giảm đi. Một kiểu cạnh tranh không lành mạnh đã hình thành.
Mặt khác, cho vay quá mức mà không đòi được vốn và lãi khiến cho [[bảng cân đối tài sản]] của các ngân hàng bị xấu đi, khiến họ phải đối mặt với qui chế về mức độ an toàn dựa trên tiêu chí vốn do [[Ngân hàng Thanh toán Quốc tế]] (BIS) ban hành. Vì thế, ngân hàng sẽ trở nên ngại ngùng khi cho vay. Hậu quả, tình trạng [[đói tín dụng]] xảy ra cho các [[doanh nghiệp nhỏ và vừa|xí nghiệp nhỏ và vừa]] là chính.
Tóm lại, nợ động vừa dẫn đến đầu tư quá mức ở các xí nghiệp hoạt động kém hiệu quả, vừa dẫn đến đầu tư không đủ ở các xí nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất. Hai hiện tượng này che lấp lẫn nhau khiến cho tác hại của nợ đọng khó nhận ra được. Và đây là một nguyên nhân nữa khiến nợ đọng lại đẻ ra nợ động.
===Đầu tư tư nhân giảm===
Nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm [[tổng cầu]] giảm có thể là nguyên nhân kinh tế suy giảm.<ref>Yoshikawa, Hiroshi (2000), ''Japan's Lost Decade'', Tokyo University Publisher, [[Tōkyō|Tokyo]].</ref> Còn nguyên nhân khiến nhu cầu đầu tư tư nhân giảm là tình trạng đói tín dụng. Nợ xấu khiến cho các ngân hàng ngần ngại cho vay; và điều này ảnh hưởng đến đầu tư. Các xí nghiệp nhỏ, nhất là trong ngành chế tạo, phải đối mặt với tình trạng này nhiều hơn.<ref>Motonishi, Taizo and Yoshikawa, Hiroshi (1998), "Causes of the Long Stagnation of Japan During the 1990s: Financial or Real?" ''NBER Working Paper 7351''.</ref>
===Bẫy thanh khoản===
Nhà kinh tế học [[Hoa Kỳ]] đoạt [[danh sách người đoạt giải Nobel
===Kích cầu kém===
Dòng 36:
===Chính sách tiền tệ thiếu hợp lý===
[[Tập tin:JPDeflator.png|nhỏ|phải|300px|Thiểu phát và giảm phát trong thập kỷ mất mát.]]
Nhiều nhà nghiên cứu phê phán [[Ngân hàng Nhật Bản]] đã không thực hiện [[chính sách lưu thông tiền tệ|chính sách tiền tệ]] hợp lý và đó là một trong những nguyên nhân gây ra thập kỷ mất mát của nước này.<ref name="Ahearneetal" /><ref>Bernanke, Ben S. (2000), "Japanese Monetary Policy: A Case of Self-Induced Paralysis?" in Posen, Adam S. and Mikitani, Ryoichi edited (2000),''Japan's Financial Crisis and Its Paralells to US Experience'', Institute for International Economics.</ref><ref>Jinushi T., Kuroko Y., and Miyao R. (2000), "Monetary Policy in Japan Since the Late 1980s: Delayed Policy Actions and Some Explaination," in Posen, Adam S. and Mikitani, Ryoichi edited (2000),''Japan's Financial Crisis and Its Paralells to US Experience'', Institute for International Economics.</ref><ref>[[Paul Krugman|Krugman, Paul]] (1998), [http://www.wiwiss.fu-berlin.de/w3/w3collie/krugman/rede.html The Return of Demand Side Economics].</ref><ref>Krugman, Paul (2001), "The Fear Economy", ''[[The New York Times]] on-line'', October 30.</ref><ref>野口旭・岡田靖(2003) 「金融政策の機能停止はなぜ生じたのか」 岩田・宮川[編] 『失われた 10 年の真因は何か』 東洋経済新報社、東京。</ref>
Ngân hàng Nhật Bản bị phê phán là đã chậm trễ trong việc nới lỏng chính sách tiền tệ (giảm [[lãi suất]]). Đến khi quyết định giảm lãi suất, thì lại giảm không đủ mức; thậm chí còn vội vàng nâng lãi suất ngày khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi vào cuối năm 1993.
Dòng 42:
Đến mùa hè và thu năm 1995, lãi suất ngắn hạn từ mức trên 2% xuống còn 0,4~0,5%. Khi kinh tế Nhật Bản lại rơi vào suy thoái từ đầu năm 1997, Ngân hàng Nhật Bản đã không còn khả năng giảm lãi suất. Từ năm 1998, nền kinh tế chính thức rơi vào trạng thái [[giảm phát]]. [[Khu vực tư nhân]] bắt đầu hình thành dự tính rằng xu hướng giảm phát sẽ tiếp tục (tức là [[dự tính lạm phát]] mang dấu âm). Hai điều này dẫn đến lãi suất thực tế tăng lên, vì lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi dự tính lạm phát. Đầu tư và tiêu dùng tư nhân bắt đầu giảm càng làm cho khoảng cách giữa [[tổng cầu]] và [[tổng cung]] càng tăng. Giảm phát càng nghiêm trọng hơn, và đây chính là "bẫy giảm phát" mà Nhật Bản mắc phải. Giảm phát làm cho gánh nặng nợ của xí nghiệp lớn thêm vì nợ quá hạn gia tăng, làm cho [[lợi nhuận]] của xí nghiệp giảm vì lãi suất thực tế và tiền công thực tế trở nên cao hơn. Do đó, xí nghiệp trở nên dè dặt trong đầu tư thiết bị khiến cho nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu giảm theo.
Iwata (2000)<ref>岩田規久男 (2000) 「総括 日本の90年代金融政策」 『週刊東洋経済 臨時増刊』 2000年8月2日。</ref> cho rằng, trong thời kỳ bong bóng kinh tế và thời kỳ bong bóng tan vỡ, [[cung ứng tiền tệ|cung tiền]] ở Nhật Bản lên cao xuống thấp rất bất thường, nhưng lãi suất ngắn hạn thì có xu hướng bị cố định. Ông gọi chính sách tiền tệ như vậy của Ngân hàng Nhật Bản là "chính sách tiền tệ đơn điệu", chỉ biết làm cho cung tiền bằng cầu tiền để giữ tỷ lệ lạm phát khỏi tăng, chứ không chịu quan tâm đến những mục tiêu tổng quát hơn như là mức tăng trưởng GDP.
===Chủ nghĩa tư bản kiểu Nhật Bản===
[[Alan Greenspan]] - nguyên [[Chủ tịch Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ|Chủ tịch Fed]] - cho rằng "Nhật Bản luôn có cách hành xử khác với các nước [[chủ nghĩa tư bản|tư bản chủ nghĩa]] khác". Greenspan kể rằng ông có nhiều cuộc nói chuyện với [[Miyazawa Kiichi]] - nguyên [[Thủ tướng Nhật Bản]] và [[bộ trưởng Tài chính Nhật Bản]] - trong đó có giới thiệu kinh nghiệm của Hoa Kỳ về xử lý nợ của [[khủng hoảng tín dụng Hoa Kỳ|các quỹ tín dụng phá sản]]: cần chấp nhận cho phá sản những tổ chức tài chính hoạt động không hiệu quả và thanh lý tài sản của các tổ chức này. Tuy nhiên, Miyazawa trả lời rằng đó không phải là cách làm của Nhật Bản. Greensapan cho rằng nếu Nhật Bản làm theo kinh nghiệm của Hoa Kỳ thì giai đoạn điều chỉnh sẽ thu ngắn lại và kinh tế Nhật Bản sẽ trở lại bình thường sớm hơn. Tuy nhiên người Nhật Bản lại chủ ý chấp nhận đình trệ kinh tế ... để không phải làm mất mặt các công ty cũng như các cá nhân bị phá sản hay bị sa thải.<ref>Greenspan, Alan (2008), ''Kỷ nguyên hỗn loạn: Những cuộc khám phá trong thế giới mới'', Nguyễn Hồng Quang và những người khác dịch, Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12, trang 354-355.</ref>
Lưu Ngọc Trịnh (2004) cho rằng chính mô hình [[phát triển kinh tế]] từng đem lại sự [[kỷ nguyên tăng trưởng nhanh (Nhật Bản)|thần kỳ kinh tế]] cho Nhật Bản đã hết thời và sự chậm trễ đổi mới cũng như cải cách nửa vời đã khiến Nhật Bản rơi vào trì trệ kinh tế lâu đến vậy.<ref>Lưu, Ngọc Trịnh (2004), ''Suy thoái kéo dài, cải cách nửa vời - Tương lai nào cho nền kinh tế Nhật Bản?'' Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, trang 20-44 và trang 365-368.</ref>
|