Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Việt Nam (miền Nam, 1954–1959)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: {{Infobox Military Conflict → {{Thông tin chiến tranh
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 7:
[[Quốc gia Việt Nam]] đổi tên thành [[Việt Nam Cộng hòa]].<br>
[[Việt Nam Cộng hòa]] tiến hành bình định miền Nam, giải tán quân đội của các giáo phái.
|combatant1=[[Tập tin:flag of the United States.svg|22px]] [[Hoa Kỳ]] (cố vấn)<br>[[Tập tin:flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Việt Nam Cộng hòa|Việt Nam Cộng hoà]]
|combatant2=[[Tập tin:Flag of None.svg|22px]] [[Xứ ủy Nam Kỳ]]<br>
[[Tập tin:Flag of None.svg|22px]] [[Cao Đài]]
[[Tập tin:Flag of None.svg|22px]] [[Phật Giáo Hòa Hảo|Hòa Hảo]]
|commander1=[[Ngô Đình Diệm]]<br>[[Ngô Đình Nhu]]<br>[[Edward Landsdale]]
|commander2=
Dòng 22:
== Thành lập Việt Nam Cộng hòa ==
 
Theo [[hiệp định Genève, 1954|hiệp định Genève]], [[Quốc gia Việt Nam]] theo quân Pháp tập kết về miền Nam Việt Nam, quân Pháp sẽ rút dần sau hai năm và Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
 
Tuy nhiên, báo cáo của [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] cho Tổng thống Mỹ [[Dwight D. Eisenhower|Eisenhower]] thấy rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành, nên Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không thể diễn ra.<ref>Dwight D. Eisenhower, Mandate for Change, 1953-56 (Garden City, NY: Doubleday & Compnay, Inc., 1963), tr. 372</ref> Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do [[Edward Lansdale]], người của CIA và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, giúp huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau là Việt Nam Cộng hòa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippin; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối"<ref>Trích tại The CIA: A Forgotten History; All other actions: The Pentagon Papers, Document No. 15: 'Lansdale Team's Report on Covert Saigon Mission in '54 and '55,' pp. 53-66.</ref> Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam. Tháng 1-1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho quân đội Quốc gia Việt Nam.
{{Chiến tranh Việt Nam}}
Tính ra, từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa 7 tỷ đôla, trong đó viện trợ quân sự là 1,5 tỷ đôla.<ref>Robert S.Mc.Namara: Nhìn lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.43</ref> Trong những năm 1954-1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu đôla giúp trang bị cho các lực lượng thường trực Việt Nam Cộng Hòa, gồm 170.000 quân và lực lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chờ vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ.
Dòng 31:
 
=== Kinh tế, văn hoá, xã hội ===
Giai đoạn 1954-1959 là thời đỉnh cao của chế độ Việt Nam Cộng hoà. Với mục đích ''xây dựng một quốc gia phi cộng sản'' và đối trọng với [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Việt Nam Dân chủ Cộng hoà]], chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ lớn cho Việt Nam Cộng hoà. Tình hình chính trị tương đối ổn định, người cộng sản chưa phát động chiến tranh du kích, an ninh nông thôn chưa xấu đi như các giai đoạn sau này tạo điều kiện cho miền Nam Việt Nam phát triển mạnh trên mọi lĩnh vực.
 
Trong thời kỳ này, Chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã đạt được một số thành quả quan trọng: kinh tế phục hồi và phát triển nhanh, hệ thống đường sá, cơ sở hạ tầng và các khu công nghiệp được xây dựng, y tế và giáo dục phát triển, các cơ sở văn hóa được thành lập, nạn mù chữ tiếp tục bị xoá bỏ. Chính phủ giúp hơn một triệu dân miền Bắc di cư ổn định đời sống, đời sống của dân chúng được cải thiện...
Dòng 44:
Tất cả các nhà lãnh đạo của Việt Nam Cộng hoà, từ Ngô Đình Diệm cho đến [[Nguyễn Văn Thiệu]] và [[Dương Văn Minh]] sau này, không ai có được uy tín cao trong dân chúng như là những người hy sinh đấu tranh cho độc lập cho dân tộc như [[Hồ Chí Minh]]. Trước năm 1945, họ là quan chức của Triều đình Huế hoặc chính quyền bảo hộ Pháp, sau này trở thành quan chức của [[Quốc gia Việt Nam]]. Họ xuất thân là các công chức, trí thức chịu nhiều ảnh hưởng Tây phương, xa rời với tâm lý của nông dân. Họ rất yếu trong công tác dân vận, thậm chí khi xuống địa phương gặp quần chúng họ lại nói [[tiếng Pháp]].{{fact|date=6-01-2013}} Ngô Đình Diệm còn thụ hưởng nghi lễ rửa chân làm Hoàng đế của [[người Thượng]]. Trong khi đó cách dân vận của những người Cộng sản thì lại hợp lý hơn: cán bộ của họ "ba cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với nông dân, cán bộ người Kinh của họ "[[cà răng căng tai]]" cùng người Thượng.
 
Lực lượng chính trị của Việt Nam Cộng hoà mạnh ở các thành phố lớn và tại các vùng nông thôn mà người cộng sản không có nhiều ảnh hưởng như các vùng có đông tín đồ [[Cao Đài]], [[Phật Giáo Hòa Hảo|Hoà Hảo]], Thiên chúa giáo...
 
Chính phủ Việt Nam Cộng hoà vướng vào một nghịch lý. Muốn xây dựng miền Nam thành một nền dân chủ<ref>The Reunification of Vietnam, SURVEY ON THE GENEVA AGREEMENTS of July 1954, page 11, Vietnam bulletin - a weekly publication of the Embassy of Vietnam in United States, Special issue No.16, Available [http://www.vietnam.ttu.edu/star/images/1653/16530101012.pdf online]</ref><ref>Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956, Điều 4 : '''''Hành pháp, lập pháp, tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ Tự do, Dân chủ''', chính thể cộng hòa, và trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tính cách độc lập.''</ref> theo mô hình phương Tây trước hết phải ổn định chính trị, thiết lập lại trật tự xã hội, phát triển kinh tế với sự hỗ trợ của Mỹ. Nhưng càng cố gắng thiết lập trật tự, dẹp bỏ các lực lượng chống đối thì họ càng bị coi là tay sai, độc tài, gia đình trị. Những người cộng sản và những thành phần chính trị hợp pháp đối lập với chính phủ Việt Nam Cộng hoà lúc đó càng có lý do để chỉ trích chính phủ và gia tăng các hoạt động chống đối của họ. Để đối phó, chính phủ Việt Nam Cộng hoà càng cứng rắn hơn nữa. Cứ như thế tình hình chính trị miền Nam ngày càng bất ổn, chính phủ Ngô Đình Diệm càng bị lên án độc tài, gia đình trị.
 
=== Quân đội ===
Việt Nam Cộng hoà cũng thành công trong việc thống nhất lại các lực lượng Quân đội Quốc gia vốn là nhiều mảnh vụn, nhiều phe cánh khác nhau khi còn là quân đội của Quốc Gia Việt Nam trong thành phần quân đội Liên hiệp Pháp. Nổi bật nhất là việc Chính phủ Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng bình định các lực lượng vũ trang cát cứ của [[Bình Xuyên|nhóm Bình Xuyên]], của các giáo phái như [[Phật Giáo Hòa Hảo|Hòa Hảo]], [[Cao Đài]]... và những người cộng sản còn lại đang ẩn mình trong các giáo phái. Phần lớn các lực lượng quân sự giáo phái, hoặc phải giải tán, hoặc chấp nhận hợp nhất với lực lượng quân đội chính phủ<ref>[http://www.hoahao.org/D_1-2_2-188_4-63_5-3_6-1_17-9_14-2_15-2/ Nguyễn Long Thành Nam, Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, CHƯƠNG 13: VẤN ĐỀ SÁT NHẬP QUÂN LỰC PGHH VÀO QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM, Tập san Đuốc Từ Bi, 1991]</ref>.
 
[[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] được cấp tốc trang bị và huấn luyện với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ. Quân đội này, vào thời điểm đó có trang bị vũ khí được xem là đứng đầu khu vực [[Đông Nam Á]] và vượt trội hơn [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] - đối thủ đang tiềm tàng ở miền Bắc của họ.{{fact|date=6-01-2013}}
 
=== Thi hành chính sách chống Cộng ===
Sau khi thực hiện Hiệp định Genève, lực lượng Việt Minh tại miền Nam (chỉ chung cho tất cả những người kháng chiến cũ) còn khoảng 100.000 người.<ref name="insurgency">[http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon/pent13.htm The Pentagon Papers - Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960"]</ref> Lúc này những người cộng sản chủ trương đấu tranh chính trị đòi thực hiện Tổng tuyển cử, chống các chương trình phát triển xã hội của chính quyền Ngô Đình Diệm như "Cải cách điền địa", "Cải tiến nông thôn" và bảo vệ cán bộ cách mạng nhưng vẫn sẵn sàng hoạt động vũ trang bất cứ lúc nào với số vũ khí được chôn giấu từ trước. Chính phủ Việt Nam Cộng hoà lo ngại và đề phòng trước hoạt động của những người cộng sản tại miền Nam. Chính vì thế Chính phủ Việt Nam Cộng hoà tiến hành các [[chính sách tố"Tố cộngCộng Diệt diệt cộngCộng"|chiến dịch tố cộng, diệt cộng]], liên gia phòng vệ, dồn dân lập [[ấp Chiến lược|ấp chiến lược]]... một cách tàn bạo với mục tiêu kêu gọi và ép buộc những người cộng sản ly khai chủ nghĩa cộng sản đồng thời tiêu diệt những người trung thành với lý tưởng của họ. Những biện pháp cứng rắn nhất được áp dụng, ví dụ ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đã nổ súng trấn áp đoàn biểu tình ở thị xã Gò Công, bắn chết 8 người và 162 người bị thương.<ref name=tiengiang>http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?cap=4&idcha=2649&id=2650</ref>
 
Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Ngô Đình Diệm phát động “chiến dịch tố cộng” giai đoạn 1 trên quy mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở [[chiến dịch Thoại Ngọc Hầu]] càn quét những khu từng là căn cứ [[chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]] của Việt Minh. Tháng 8-1956, [[Đảng Cần lao Nhân vị]] của Ngô Đình Diệm tiến hành thực hiện “Tố cộng - diệt cộng” giai đoạn hai với khẩu hiệu: ''“Tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên oán thù để thực hiện dân chủ nhân vị quốc gia”''.<ref name=tiengiang />
 
Hành động của chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã không tính đến các đặc điểm tâm lý và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử: Việt Nam vừa thắng trong chiến tranh chống Pháp (xem [[Chiến tranh Đông Dương]]). Bằng cách này chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã làm biến dạng mô hình xã hội truyền thống và đẩy những người kháng chiến chống Pháp trước đây ra rừng lập chiến khu. Đồng thời đây là cơ hội rất tốt cho những người Cộng sản tuyên truyền coi chính quyền Việt Nam Cộng hoà như "tay sai đế quốc".
Dòng 69:
Các tôn giáo Hòa Hảo, Cao Đài không phải chỗ dựa chính chính quyền Việt Nam Cộng hòa, khá đông lựa chọn thái độ trung lập. Theo nhận định của Đảng cộng sản về Công giáo: ''Trước hoà bình tổng số đồng bào Công giáo chỉ khoảng 324.630, nay cộng thêm vào số đồng bào miền Bắc di cư vào có khoảng 711.714 (theo tài liệu của báo chí miền Nam). Mấy năm qua Mỹ - Diệm cố gắng phát triển Công giáo để làm hậu thuẫn cho chúng. Chúng đạt được một số kết quả ở vài nơi ở Liên khu V; trong những vùng bị khủng bố nặng nề, có nhiều người vào Công giáo để tránh khủng bố; ở Nam Bộ cũng làm như thế, nhưng Công giáo không phát triển nổi. Số Công giáo người miền Nam, nhất là ở Nam Bộ, trước đây đoàn kết tốt với đồng bào lương và tham gia kháng chiến, đến nay nói chung quan hệ tốt đó vẫn được duy trì. Những cha cố Công giáo di cư vào không lôi kéo được họ. Công giáo di cư khi mới vào nói chung đều ủng hộ Diệm, tích cực chống ta''.<ref>Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) Họp từ ngày 12 đến 22-1-1959</ref>. ''Các tín đồ tôn giáo (Cao Đài, Hoà Hảo, Phật Giáo, v.v.), đại đa số là nông dân, đều có mâu thuẫn với chính quyền Mỹ - Diệm về quyền lợi dân tộc, quyền lợi tôn giáo và quyền lợi giai cấp. Ngay cả trong Công giáo, cũng có bộ phận theo Diệm và có bộ phận chống Diệm.''<ref>Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà</ref>
 
Tổng thống Ngô Đình Diệm có lực lượng chính trị hậu thuẫn mạnh ở thành thị là lực lượng [[Công giáo]],chủ yếu là các giáo dân [[Cuộc di cư Việt Nam, 1954|di cư từ miền Bắc]]. Tuy nhiên Công giáo là tôn giáo mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16, số tín đồ Công giáo ít hơn các tôn giáo khác tồn tại ở Việt Nam lâu đời hơn. Tổng thống Ngô Đình Diệm là người Công giáo, lại bố trí nhiều nhân vật Công giáo vào chính phủ{{fact|date=6-01-2013}} nên ông bị kết tội thiên vị tôn giáo của mình. Khi xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, sau khi mọi nhượng bộ của chính quyền đều không mang lại hiệu quả {{fact|date=6-01-2013}}, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chọn giải pháp vũ lực để giải quyết khủng hoảng nên tự làm mất sự ủng hộ cả trong và ngoài nước, và gây ra những xáo trộn rất lớn cho chính trường và xã hội. Cũng chính điều này làm khởi phát cuộc đảo chính của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực Việt Nam Cộng hoà]] chống lại Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11 năm [[1963]].
 
Hoa Kỳ, lúc đó, là đồng minh quan trọng nhất của Việt Nam Cộng hoà. Thiếu sự viện trợ của họ Việt Nam Cộng hoà không thể chống chọi được với miền Bắc. Quyền lợi toàn cầu của Hoa Kỳ đòi hỏi họ phải ủng hộ một miền Nam Việt Nam "phi cộng sản, theo chủ nghĩa dân tộc" và có thể đối đầu với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Khi các rối loạn xảy ra, lý tưởng dân chủ bị xâm phạm thì tất yếu sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho chính phủ Ngô Đình Diệm cũng sẽ xấu đi.
 
== Lực lượng Việt Minh ở miền Nam ==
Những người [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Cộng sản miền Nam Việt Nam]] là bộ phận cấu thành của [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]]; Đảng Lao động Việt Nam là "bộ phận hữu cơ của phong trào Cộng sản và Công nhân toàn thế giới" (điều lệ Đảng). Hệ thống Cộng sản có tổ chức chặt chẽ từ cơ sở đến cấp quốc gia lên đến khu vực, châu lục và toàn thế giới. Nhưng những người Cộng sản miền Nam Việt Nam có những đặc trưng của người miền Nam. Những người [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Cộng sản miền Nam Việt Nam]], do lịch sử khai hoang xứ Nam Bộ và ảnh hưởng văn hoá Pháp, họ mang cách sống, suy nghĩ và tác phong đặc trưng riêng của người Nam Bộ. Họ có sự độc lập tương đối với Trung ương Đảng tại [[Hà Nội]]. Những người Cộng sản miền Nam không thường dùng các lý luận như "Ba dòng thác cách mạng thế giới" hay "Bốn mâu thuẫn lớn của thời đại", không tham gia các tranh cãi lý luận đặc trưng của những người Cộng sản đương thời; họ thích mọi việc rõ ràng và đơn giản{{fact|date=6-01-2013}}. Họ là những người thực tiễn.
 
Trong giai đoạn 1954-1959, những người [[CộngMặt sảntrận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Việt Minh miền Nam]] đã có các đối sách rất hiệu quả, gây khó khăn cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong giai đoạn này, tổ chức của họ là [[Xứ uỷ Nam Bộ]] thay thế cho [[Trung ương Cục miền Nam]], đã có các đối sách hợp lý, gây khó khăn cho Chính phủ Ngô Đình Diệm. Từ chỗ bị truy lùng ráo riết, chỉ trong hai năm, những người cộng sản đã tạo thế chủ động tấn công cả về chính trị và quân sự. Về chính trị, họ đã làm chính quyền lao đao bằng các cuộc đấu tranh chính trị rầm rộ ở nông thôn và thành thị do họ chỉ đạo từ xa.<ref>PENTAGON PAPERS GRAVEL,Tr 335-337</ref> Về quân sự, họ thực hiện ám sát và chiến tranh du kích. Chiến thuật này đã phát huy tác dụng làm hạn chế được sức mạnh quân sự của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], đã đánh được những trận lớn như [[trận Tua Hai]] ([[Tây Ninh]]) vào căn cứ cấp trung đoàn của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Nhưng nhìn chung do thiếu thốn về cơ sở vật chất và hệ thống nhân lực, ở nhiều địa phương, những người cộng sản vẫn tồn tại, chung sống một cách "hòa bình", đan xen với bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
 
=== Bối cảnh ===
Dòng 85:
=== Đấu tranh chính trị (1954-1956) ===
{{Xem thêm|Đội quân tóc dài}}
Vì quân đội đã tập kết ra Bắc, Việt Minh miền Nam không còn chính quyền, quân đội và đã trở thành những phần tử hoạt động bí mật bị truy sát. Nhưng họ vẫn còn những cơ sở Đảng hoạt động bí mật tại nông thôn. Họ nhận thức được ngay rằng đó là thời điểm đấu tranh chính trị và chuyển tất cả mọi nỗ lực sang đấu tranh chính trị. Trong bối cảnh mới, họ nhanh chóng thay đổi phương châm đấu tranh. Họ không tuyên truyền về các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Cộng sản như "đấu tranh giai cấp", "chuyên chính vô sản", "liên minh công-nông" hay "sứ mạng của giai cấp công nhân"... vì có thể không hấp dẫn hoặc gây phản cảm trong dân chúng. Họ khai thác tình cảm dân tộc và lòng tự hào về cuộc [[Chiến tranh Đông Dương|Kháng chiến chống Pháp]], đòi thực thi [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], đòi tổng tuyển cử, đòi dân chủ tự do.
 
Có thể nói rằng trong [[Chiến tranh Việt Nam]], điểm mạnh về đấu tranh chính trị luôn thuộc về những người Cộng sản vì họ là những người đã lãnh đạo [[chiến tranh Đông Dương|9 năm kháng chiến chống Pháp]]. Họ có uy tín và được dân chúng công nhận là những người hy sinh cho độc lập dân tộc, là người của "[[Hồ Chí Minh|Cụ Hồ]]". Ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chín năm và thắng lợi của nó rất to lớn và sâu rộng trong lòng người dân miền Nam. [[Việt Minh]] rất được cảm tình của người dân nhất là ở nông thôn, miền núi. Những sai lầm như đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất chỉ thể hiện ở miền Bắc, trong khi tại miền Nam, chủ trương chia đất cho nông dân được thi hành mềm dẻo hơn nhiều do Việt Minh chưa có chính quyền đủ mạnh để thực hiện triệt để cũng như các cán bộ miền Nam coi trọng thực tiễn hơn. Sau này thì những người cộng sản lại kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Đó không phải là một khẩu hiệu suông mà đã được họ kết hợp rất nhuần nhuyễn và bài bản.
 
==== Tổ chức biểu tình ====
Ban đầu Việt Minh tổ chức những cuộc biểu tình tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], đòi thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chống lại việc thi hành chính sách "[[Cải cách ruộng đất|Cải cách điền địa]]" và tuyên truyền trong dân chúng rằng: chính phủ Ngô Đình Diệm là chế độ phát xít, phản động, gia đình trị và tham nhũng, là tay sai của Mỹ, được Mỹ dựng lên để chia cắt Việt Nam, áp đặt [[Chủ nghĩa thực dân mới]] của Mỹ. Việt Minh kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền như truyền miệng, phát truyền đơn, sử dụng báo chí tự do để chỉ trích chính quyền.<ref>Chém vè giữa làng báo Sài Gòn - Tuyển tập Nguyên Hùng, Nguyên Hùng, Nxb Công an nhân dân, 2005</ref> Họ còn phát động quần chúng đấu tranh với những khẩu hiệu như: đòi cải thiện dân sinh, chống nộp tô cho chủ đất, đòi lại các quyền tự do dân chủ, bảo vệ hoà bình.
 
Trong giai đoạn này Việt Minh kết hợp cả hai hình thức đấu tranh bí mật và đấu tranh công khai vô cùng sáng tạo và nhuần nhuyễn. Họ xây dựng nhiều tổ chức công khai như vạn phát, vạn cấy, hội chống trộm cướp... để có danh nghĩa hoạt động công khai. Tiếp đó cài người vào nắm các Hội đồng hương chính, công đoàn, nghiệp đoàn, hội ái hữu, hội tương tế để sử dụng các tổ chức này tập hợp quần chúng, tổ chức biểu tình, đưa các yêu sách đấu tranh.
Dòng 112:
Trong giai đoạn này, Việt Minh chủ trương phát động quần chúng đấu tranh chính trị đòi Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cán bộ - đảng viên, hạn chế hoạt động vũ trang. Vì vậy thời kỳ này chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa lực lượng Việt Minh và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Hoạt động bạo lực chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi ''diệt ác trừ gian'', hỗ trợ giáo phái chống chính quyền [[Ngô Đình Diệm]] và thành lập các đại đội dưới danh nghĩa giáo phái để đấu tranh vũ trang một cách hạn chế.
 
Trong thời gian 1954-1956, những người Việt Minh miền Nam không hoạt động vũ trang công khai chống lại quân đội Việt Nam Cộng hoà mà chỉ trợ giúp các lực lượng vũ trang giáo phái hoặc rút lui vào rừng để bảo toàn lực lượng. Hơn nữa, [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] không cho phép đấu tranh vũ trang vì có thể phương hại đến việc đòi tổng tuyển cử và dân chúng miền Nam lúc đó cũng không ủng hộ đánh nhau vào lúc hoà bình mới được lập lại.
 
Việt Minh còn chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với sự hỗ trợ của hoạt động vũ trang.<ref name="quankhu8"/> Trong giai đoạn 1954 - 1956, vì không thể tổ chức hoạt động vũ trang vì trái với Hiệp định Genève nên họ cố vấn, giúp đỡ các giáo phái chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm, sau đó thành lập các đơn vị vũ trang lấy danh nghĩa giáo phái. Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ (gồm các tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên), tiền thân của Khu uỷ Khu 8, chỉ thị các tỉnh phải giúp đỡ quân Hoà Hảo, đưa cán bộ, đảng viên thâm nhập lực lượng Hoà Hảo. Trong các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (20/5/1955), Nguyễn Huệ (1/1/1956), cán bộ Việt Minh cố vấn cho lực lượng Hoà Hảo chống lại sự tấn công của chính quyền Ngô Đình Diệm.<ref name="quankhu8"/>
Dòng 141:
=== Chiến tranh du kích ===
==== Lực lượng ====
Sau [[1956]], khi không còn cơ hội tổng tuyển cử nữa, những người Cộng sản bắt đầu phát động chiến tranh du kích từ đánh nhỏ quấy rối đi lên đánh tập trung, đánh lớn. Vì còn chưa có tiếp tế từ miền Bắc nên cách xây dựng quân đội cũng có nhiều nét đặc trưng. Họ xây dựng quân đội theo mô hình của [[chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]], cũng theo "ba thứ quân": bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
 
Du kích thì tự nuôi lấy mình, sinh hoạt như là dân địa phương và hoạt động ngay trong địa bàn. Vì du kích không có các chiến thuật kỹ thuật nên hoạt động chính là hỗ trợ đấu tranh chính trị và quấy rối trị an, "Diệt ác phá kìm", chống càn. Nếu đối phương mạnh thì giấu quân vào hầm bí mật hoặc giải tán về nhà nằm chờ. Lúc thường thì làm giao liên, tải thương, tiếp đạn... Một số nơi, những người cộng sản tổ chức lực lượng du kích đến tận cấp xã. Như ở Long An, mỗi tiểu đội phụ trách 2 đến 3 xã, mỗi tổ 1 xã.
Dòng 156:
Họ còn sử dụng lực lượng vũ trang cấp đại đội tấn công vào các đồn của quân đội Việt Nam Cộng hoà.
 
Một chiến thuật rất hiệu quả áp dụng từ thời đó làm bó tay các cấp chỉ huy [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực Việt Nam Cộng hoà]] là chiến thuật "Bám đất bám dân". Cách đánh này có mô hình điển hình như sau{{fact|date=6-01-2013}}:
 
* Quân du kích phục kích đường giao thông.