Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Asuka”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 31 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q210688 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 2:
{{nihongo|'''Thời kỳ Asuka'''|飛鳥時代,|''Asuka-jidai''|hanviet=Phi Điểu thời đại}} là một thời kỳ trong [[lịch sử Nhật Bản]] kéo dài từ năm [[538]] đến năm [[710]], mặc dù giai đoạn khởi đầu của thời kỳ này có thể trùng với giai đoạn cuối của [[thời kỳ Kofun]]. Thời kỳ Asuka được đặt theo tên vùng [[Asuka]], cách thành phố [[Nara]] hiện giờ khoảng 25 km về phía nam. Quốc gia [[Yamato]], ra đời trong thời kỳ Kofun, phát triển rất nhanh trong thời kỳ Asuka. Nhiều cung điện hoàng gia được xây dựng trong vùng ở thời kỳ này.
 
Thời kỳ Asuka được biết đến với những thay đổi quan trọng về nghệ thuật, xã hội và chính trị. Những thay đổi này có nguồn gốc vào cuối thời Kofun, nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của sự xuất hiện của [[phật giáo|đạo Phật]] ở [[Nhật Bản]]. [[Phật giáo]] xuất hiện đánh dấu một thay đổi lớn trong xã hội Nhật Bản. Thời kỳ Asuka còn được phân biệt với các thời kỳ khác bởi sự thay đổi tên của quốc gia từ [[Oa quốc]] (倭) thành [[Nhật Bản]] (日本).
 
Dựa trên những thay đổi về mặt nghệ thuật, thời kỳ này có thể được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn [[Asuka]] (cho tới [[cải cách Taika]]), khi những nhân tố Phật giáo đầu tiên xuất hiện với ảnh hưởng từ [[Bắc Ngụy]] và [[Bách Tế]], và giai đoạn [[Hakuho]] (từ sau cải cách Taika) khi những ảnh hưởng của [[nhà Tùy]] và [[nhà Đường]] bắt đầu xuất hiện.
Dòng 10:
 
== Quốc gia Yamato ==
Chính thể [[Yamato]], nổi lên vào cuối [[thế kỷ 5]], tiêu biểu bởi các lãnh chúa hùng mạnh, các gia tộc và những cận thần của họ. Mỗi gia tộc do một tộc trưởng đứng đầu. Tộc trưởng cũng là người tiến hành các nghi lễ tế thần ([[thần đạo#Kami và Megami|kami]]) của bộ tộc để cầu bình an cho bộ tộc. Các thành viên của dòng họ tộc trưởng là những quý tộc và có vai trò quan trọng trong triều đình Yamato. Các lãnh chúa địa phương trong thời Yamato sau đó trở thành những thành viên của triều đình hoàng gia vào đầu thời kỳ Asuka.
 
Việc triều đại Yamato bắt đầu từ bao giờ vẫn còn là một việc gây tranh cãi. Sự thống trị trên toàn lãnh thổ Nhật Bản có lẽ chỉ bắt đầu từ cuối [[thời kỳ Kofun]] hoặc vào đầu thời kỳ Asuka.
Dòng 16:
Thời kỳ Asuka, một phân kỳ của thời kỳ Yamato, là giai đoạn đầu tiên trong [[lịch sử Nhật Bản]] có một vương triều [[Nhật Bản]] cai trị tương đối hoàn chỉnh vùng đất nay thuộc tỉnh [[Nara]], còn khi đó được gọi là tỉnh [[Yamato]].
 
Triều đình Yamato, tập trung ở vùng [[Asuka]], áp đặt quyền lực lên các lãnh chúa ở [[Kyushu]] và [[Đảo Honshu|Honshu]], phong tước hiệu, một số được cha truyền con nối, cho các lãnh chúa ở đó. Cái tên Yamato bắt đầu được dùng để chỉ chung cả Nhật Bản từ khi triều đình Yamato áp chế được các lãnh chúa địa phương và kiểm soát đất đai nông nghiệp. Dựa theo hình mẫu [[Trung Quốc]] (bao gồm cả việc tiếp thu [[chữ Hán]]), triều đình Yamato phát triển một hệ thống hành chính tập trung với các buổi thiết triều có sự tham gia của những người đứng đầu các bộ tộc nhưng vẫn chưa có thủ đô chính thức. Vào giữa [[thế kỷ 7]], diện tích đất nông nghiệp biến thành đất công, do chính sách cai trị tập trung, đã là khá lớn. Đơn vị hành chính cơ bản nhất của hệ thống [[Gokishichido]] là cấp xã, và xã hội được tổ chức thành các nhóm phường hội làm các nghề khác nhau. Hầu hết là nông dân, ngoài ra còn có ngư dân, thợ dệt, thợ làm đồ gốm, thợ trang trí nhà cửa, thợ làm đồ sắt và những người có trách nhiệm đặc biệt trong các nghi lễ tôn giáo.
 
Triều đình Yamato có quan hệ với vương quốc [[Gaya]] trên [[bán đảo Triều Tiên]]. Khi đó, người Nhật gọi vương quốc Gaya là Mimana. Có những cứ liệu khảo cổ học từ các lăng mộ [[thời kỳ Kofun]] cho thấy có sự tương đồng về hình dáng, nghệ thuật và các lớp vải phủ ngoài của những đồ vật chôn theo. Một nguồn khác cũng đề cập tới mối liên hệ này là cuốn [[Nihon Shoki]]. Trong một thời gian dài, các sử gia Nhật Bản cho rằng Gaya là một thuộc địa của Yamato, một giả thuyết giờ đây đã bị bác bỏ. Một giả thuyết khác dễ được chấp nhận hơn là cả những quốc gia ở Triều Tiên và Nhật Bản khi đó đều là chư hầu của các triều đình [[nhà Tùy]] và [[nhà Đường]] ở Trung Quốc.
Dòng 42:
Khoảng 20 năm sau khi [[Thánh Đức Thái tử]], [[Soga no Umako]] và Nữ hoàng [[Suiko]] lần lượt qua đời, những cuộc vận động tranh giành quyền lực trong triều đình đã dẫn đến một cuộc lật đổ sự kiểm soát của dòng họ [[Soga]] vào năm [[645]]. Cuộc lật đổ do Hoàng tử [[Naka no Oe]] và [[Nakatomi no Kamatari]] cầm đầu giành lại quyền kiểm soát triều chính từ tay gia đình Soga và mở đầu cho cuộc [[cải cách Taika]] (Taika no Kaishin).
 
Giai đoạn từ 645 đến [[649]] trong [[lịch sử Nhật Bản|lịch sử Nhật]] Bản do đó còn được gọi là thời kỳ Taika, có nghĩa là “Đại hóa” (Sự thay đổi lớn). Sự kiện dẫn đến cuộc cải cách Taika được gọi là [[sự biến năm Ất Tỵ]], cuộc đảo chính năm 645.
 
Mặc dù không tạo ra một định chế pháp luật, cải cách Taika, thông qua nhiều cải biến quan trọng, đã đặt nền tảng cho bộ luật ritsuryo là một hệ thống các cơ chế vận hành xã hội, bộ máy hành chính và tài chính của [[Nhật Bản]] từ [[thế kỷ 7]] đến [[thế kỷ 10]]. Ritsu là bộ hình luật, còn ryo là bộ luật hành chính. Kết hợp lại, chúng tạo thành một bộ luật hoàn chỉnh dựa bao gồm những điều khoản riêng rẽ đã được thừa nhận từ thời cải cách Taika.
Dòng 50:
Đất nước được chia thành các tỉnh đứng đầu có tỉnh trưởng do triều đình chỉ định. Các tỉnh lại được chia thành các huyện và làng.
 
Naka no Oe tiếp tục là Thái tử nhiếp chính, trong khi Kamatari được ban cho họ mới là [[Fujiwara]], như một phần thưởng cho những đóng góp của ông cho triều đình. Dòng họ Fujiwara sau đó trở thành một dòng họ quý tộc lâu đời ở Nhật Bản. Một thay đổi lâu đời khác là việc đổi tên nước thành [[Nhật Bản|Nihon]], hoặc đôi khi là [[Dai Nippon]] (Đại Nhật Bản) trong các tài liệu ngoại giao và các biên niên sử. Năm [[662]], Naka no Oe chính thức lên ngôi vua thay chú và mẹ, trở thành Hoàng đế [[Tenji]]. Hoàng đế Nhật bản cũng bắt đầu được gọi là [[Thiên Hoàng]] kể từ đó. Ngôi vị này nhắm mục đích nâng cao uy thế của gia tộc Yamato và nhấn mạnh nguồn gốc Thần thánh của Hoàng gia với hy vọng giữ Hoàng tộc đứng trên mọi xung đột chính trị. Tuy vậy, trong nội bộ Hoàng tộc, tranh quyền đoạt vị vẫn tiếp diễn khi anh và con trai của Thiên Hoàng tranh giành ngôi báu trong [[chiến tranh Jishin]]. Người anh, sau này lấy niên hiệu là [[Thiên Hoàng Temmu]], củng cố cải cách Tenji và tập trung quyền lực vào trong tay triều đình.
 
=== Hệ thống ''Ritsuryō'' ===
Dòng 57:
Dù ''Ritsu'' (''Luật'') có nguồn gốc từ hệ thống luật Trung Hoa, ''Ryō'' (''Lệnh'') được sắp xếp theo tập tục địa phương. Vài học giả biện luận rằng hệ thống luật này chủ yếu dựa theo mẫu của Trung Quốc.<ref>William Wayne Farris, ''Sacred Texts and Buried Treasures: Issues on the Historical Archaeology of Ancient Japan'', University of Hawaii Press, 1998. [http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0824820304&id=dCNioYQ1HfsC&vq=yamato+paekche&dq=kofun+tumuli+korea&lpg=PA104&pg=PA105&sig=3Me7_8p9Tdh1KAYJFUpG7L-Q8ho].</ref>
 
Luật Taihō có các điều khoản hình sự theo lối Nho giáo (nhẹ hơn so với các hình phạt khắt khe) và tập quyền trung ương kiểu Trung Quốc qua ''{{nihongo|[[Thần kỳ quan (Nhật Bản)|Thần kỳ quan]]|神祇官 (''Jingi-kan'')}}'' (Bộ Lễ), với chức năng coi sóc đạo [[Thần đạo|Shinto]] và nghi lễ triều đình, và ''{{nihongo|[[Thái chính quan (Nhật Bản)|Thái chính quan]]|太政官 (''Daijō-kan'')}}'' ([[Bộ Công]]), với tám bộ (để tập trung quyền lực, lễ nghi, sự vụ dân sự, hoàng tộc, pháp lý, quân sự, nhân dân và quốc khố). Mặc dù hệ thống thi cử kiểu Trung Quốc không được áp dụng, {{nihongo|’’Đại Học Liêu’’|大学寮|Daigaku-Ryō}} được thành lập để đào tạo các quan lại tương lai dựa trên nền tảng Nho giáo cổ điển. Tuy vậy, hệ thống mưu lược cổ điển, ví dụ như dòng dõi quý tộc tiếp tục là tiểu chuẩn chính để lựa chọn các vị trí quan trọng, và tước hiệu sẽ sớm được truyền đời lại. Luật Taihō không đề cập đến việc lựa chọn Quốc Chủ. Vài Nữ Hoàng vẫn lên ngôi từ thế kỷ 5 đến 8, nhưng sau năm [[770]], việc thừa kế chỉ được dành cho đàn ông, thường là cha truyền con nói, mặc dù đôi khi vẫn truyền theo mối quan hệ anh-em hay bác-.<ref name="FRD"/>
 
{{nihongo|[[Fujiwara Fuhito]]|藤原不比等(‘’Đằng Nguyên Bất Tỷ Đẳng’’)}}, con trai của [[Nakatomi no Kamatari]], là một trong những người soạn thảo Taihō Ritsuryō. Theo bộ sử {{nihongo|[[Shoku Nihongi]]|續日本紀(‘’Tục Nhật Bản Kỷ’’)}}, hai trong số 19 thành viên của hội đồng phác thảo [[Luật Taiho]] là pháp sư Trung Quốc (Shoku-Shugen and Satsu-Koukaku).<ref>[http://applepig.idv.tw/kuon/furu/text/syokki/syokki01.htm#skk01_06 續日本紀 卷第一 文武紀一]</ref><ref>[http://www.j-texts.com/jodai/shoku1.html 『続日本紀』国史大系版]</ref> Các pháp sư Trung Quốc cũng giữ vai trò quan trọng như các chuyên gia ngôn ngữ học, và hai lần được [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]] ban thưởng.
 
== Quan hệ đối ngoại ==
Từ năm [[600]] đến năm [[659]], Nhật Bản gửi 7 sứ thần đến [[nhà Đường]] ở Trung Quốc. Nhưng trong vòng 32 năm tiếp theo, trong giai đoạn Nhật Bản đang hoàn thành hệ thống luật pháp dựa trên thư tịch Trung Hoa ủa mình, họ không gửi ai đi. Mặc dù Nhật Bản cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, họ đã gửi 11 sứ thần đến [[Tân La|Silla]], và theo [[Nihon Shoki]] thì Silla đã gửi 17 sứ bộ đến Nhật Bản dưới triều [[Thiên Hoàng Temmu]] và [[Thiên Hoàng Jito|Nữ Thiên Hoàng Jito]]. Gia tộc thống trị Yamato và [[Bách Tế|Baekje]] có quan hệ thân tình với nhau, và Yamato đã gửi hải quân của mình đến cứu viện Baekje, năm [[660]]-[[663]], chống lại cuộc xâm lăng của [[Tân La|Silla]] và [[nhà Đường]] (xem [[trận Baekgang]]).
 
Thay vì chu du đến Trung Quốc, rất nhiều pháp sư từ [[Tam Quốc (Triều Tiên)|Tam Quốc Triều Tiên]] được gửi đến Nhật Bản. Kết quả là, điều này cũng tình cờ thúc đẩy việc Nhật gửi quân cứu viện [[Bách Tế|Baekje]].<ref name="Sansom">Sansom, George (1958). 'A History of Japan to 1334'. Stanford, California: Stanford University Press. 47-49.</ref> Một vài pháp sư nổi tiếng đến từ Triều Tiên như {{Nihongo|[[Eji]]|慧慈 (''Tuệ Từ'')}}, {{Nihongo|[[Ekan]]|慧灌 (''Tuệ Quán'')}}, {{Nihongo|[[Eso]]|慧聡(''Tuệ Thông'')}} and {{Nihongo|[[Kanroku]]|觀勒 (''Quan Lặc'')}}. Eji, đến từ [[Cao Câu Ly|Goguryeo]] là thầy giáo của [[Thánh Đức Thái tử|Thái tử Shotoku]], và cố vấn cho ông về chính trị.<ref>[http://www.bookrags.com/Prince_Sh%C5%8Dtoku Encyclopedia of World Biography on Shotoku Taishi]</ref>
 
=== Torai-jin ===
Những người nhập cư Trung Quốc và Triều Tiên đã trở thành tự nhiên trong xã hội Nhật Bản cổ đại được gọi là {{nihongo|[[Torai-Jin|torai-jin]]|渡来人 (''Độ Lai Nhân'')}}. Họ truyền bá nhiều khía cạnh ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của mình cho cư dân bản địa. Người Nhật đối xử tốt với những ''torai-jin'' này vì triều đình Yamato đánh giá cao tri thức và văn hóa của họ. Theo ghi chép trong {{nihongo|''Shinsen-shōjiroku''|新撰姓氏録}}, danh sách tên các gia đình quý tộc được Triều đình Yamato biên soạn năm [[815]], một phần tư các gia đình quý tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Triều Tiên. 163 trong số 1182 cái tên là từ Trung Quốc, và 154 là từ bán đảo Triều Tiên (104 từ [[Bách Tế|Baekje]], 41 từ [[Cao Câu Ly|Goguryeo]], và 9 từ [[Tân La|Silla]] và [[Gaya]]).<ref name="Beasley">{{chú thích sách| url=http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0520225600&id=9AivK7yMICgC&pg=PA32&lpg=PA32&dq=history+of+japan+and+korea&vq=korea&sig=V5gQx0zzYDUvUYqeYjnYRbMoCG8| title=The Japanese Experience: A Short History of Japan| first=W. G.| last=Beasley| publisher=University of California Press| id=ISBN 0-520-22560-0| year=Aug 31, 2000}}</ref>
 
Tuy nhiên, những người nhập cư này nói chung bị coi là thuộc giai tầng thấp hơn trong hệ thống ''[[Kabane]]'' xếp hạng rất nhiều gia tộc là thành viên của triều đình. Họ thường được xếp vào bậc "Atai", "Miyatsuko", hay "Fubito", trong khi các thành viên của các gia đình thống trị như Soga, Mononobe, và Nakatomi được xếp vào hạng "Omi" hay "Muraji".
 
=== Những người nhập cư ===
Một ví dụ về các gia tộc có tổ tiên ngoài Nhật Bản là gia tộc Yamatonoaya (''東漢氏'') (''Đông Hán thị’’), là hậu duệ của [[Hán Linh Đế]]. Người đứng đầu gia tộc này là Achi-no-Omi (''阿智使主'') (''A Trí Sứ Chủ''). Theo [[Nihon Shoki|Nihongi]], dưới triều Nhật hoàng Kimmei, [[gia tộc Hata]] (''秦氏'') (''Tần Thị’’), hậu duệ của [[Tần Thủy Hoàng]], đã mang đến nghề nuôi tằm dệt vải. Gia tộc Kawachino-Fumi clan (''西文氏'') (''Tây Văn Thị''), là hậu duệ của [[Hán Cao Tổ]], dạy cho triều đình Yamato văn tự Trung Hoa, theo ''Shinsen-shōjiroku''. Gia tộc Takamoku là hậu duệ của [[Tào Phi]].<ref>{{chú thích web| url=http://homepage1.nifty.com/k-kitagawa/data/shoji.html| title="Shinsen-shōjiroku" shizoku ichiran 『新撰姓氏録』氏族一覧|publisher=transcribed by Kazuhide Kitagawa|accessdate=2006-10-16}}</ref><ref>{{chú thích web| url=http://www.myj7000.jp-biz.net/clan/03/03008.htm| title=Nihon no myōji 7000 ketsu seishi ruibetsu taikan Takamuko uji 日本の苗字7000傑 姓氏類別大観 高向氏| accessdate=2006-10-16}}</ref> {{nihongo|[[Takamuko no Kuromaro]]|高向玄理 (''Cao Hướng Huyền Lý'')}} là một thành viên chủ chốt đã viết nên [[Cải cách Taika]]. {{nihongo|[[Tori Busshi]]|止利仏師 (''Chi Lợi Phật Sư'')}}, cũng đến từ Trung Quốc, là một trong những họa sỹ nổi tiếng nhất thời Asuka.
 
Năm [[660]], một trong Tam Quốc Triều Tiên, [[Bách Tế|Baekje]], mất về tay [[Tân La|Silla]] và [[nhà Đường]]. Sau đó, rất nhiều nạn dân Baekje đã chạy loạn đến Nhật Bản. Triều đình Yamato đã đón nhận hoàng tộc và nạn dân Baekje. Hoàng gia Baekje được [[Thiên hoàng|Nhật hoàng]] ban cho cái tên "[[Kudara no Konikishi]]" (百済王, ''Bách Tề Vương'').
 
== Truyền bá Phật giáo ==
{{nihongo|[[Phật giáo]]|仏教|Bukkyō}} truyền vào Nhật Bản được cho là nhờ vua [[Bách Tế|Baekje]] [[SeongBách củaTế BaekjeThánh Vương|Seong]] năm [[538]], đặt nước Nhật trước một thể thức học thuyết tôn giáo này. [[Gia tộc Soga]], một gia đình trong triều đình Nhật nổi lên từ khi [[Thiên hoàng Kimmei|Nhật hoàng Kimmei]] lên ngôi khoảng năm [[531]], rất chuộng việc chấp nhận Phật giáo và kiểu mẫu văn hóa và chính quyền dựa trên [[Nho giáo]] [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]. Nhưng có những người ở triều đình Yamato – ví dụ như [[gia tộc Nakatomi]], những người có trách nhiệm điều hành các nghi lễ [[Thần đạo|Shinto]] ở triều đình, và [[gia tộc Mononobe]] nắm binh quyền – bắt đầu cố gắng duy trì đặc quyền của mình và chống lại ảnh hưởng của một tôn giáo ngoại lai như Phật giáo. Nhà Soag du nhập vào hệ thống tài khóa kiểu Trung Hoa, thành lập cơ quan ngân khố đầu tiên, và coi các vương triều ở Triều Tiên là các bạn hàng thương mại thay vì đối tượng để mở rộng lãnh thổ. Sự gay gắt tiếp diễn giữa nhà Soga và hai nhà Nakatomi và Mononobe kéo dài hơn một thế kỷ, trong suốt thời kỳ đó nhà Soga tạm thời chiếm ưu thế. Trong [[Cải cách Taika]], Chỉ dụ về việc đơn giản hóa việc chôn cất được ban bố, và việc xây dựng các ''kofun'' (''cổ phần'') bị cấm. Chỉ dụ cũng quy định kích cỡ và hình khối của ''kofun'' theo đẳng cấp.<ref name="FRD"/> Kết quả là, các ''kofun'' sau đó, mặc dù nhỏ hơn, được nhân ra bởi những bức bích họa cầu kỳ. Việc vẽ tranh và trang trí của các ''kofun'' này thể hiện sự truyền bá của Đạo Lão và Đạo Phật trong thời kỳ này. [[Takamatsuzuka Kofun]] và [[Kitora Kofun]] nổi tiếng nhất vì những bức họa của nó.{{Fact|date=April 2007}}
 
Từ đầu thời kỳ Asuka, việc sử dụng các lăng mộ [[kofun]] cầu kỳ của Hoàng gia Nhật Bản và các quý tộc bắt đầu không còn được sử dụng vì niềm tin Phật giáo đã thắng thế, vốn nhấn mạnh vào tính tạm thời của đời người. Tuy vậy, thường dân và quý tộc ở những vùng xa xôi hẻo lánh vẫn tiếp tục sử dung kofun cho đến cuối thế kỷ 7, các lăng mộc đơn giản hơn nhưng đặc biệt tiếp tục được sử dụng trong thời kỳ tiếp theo.<ref name="FRD"/>
 
== Ảnh hưởng của Đạo giáo ==
Đạo giáo cũng được truyền vào Nhật Bản trong thời Asuka. Vào giữa thế kỷ 7, [[Nhật hoàng Saimei|Nữ Hoàng Saimei]] xây dựng đền thờ đạo Lão ở núi [[Tōnomine Tanzan|Tōnomine]] (多武峯談山) (''Đa Võ Phong Đàm Sơn''). Hình dạng bát giác của lăng mộ triều đình trong thời kỳ này và những thiên đồ được vẽ ở Kitora và Takamatsuzuka cũng phản ánh vũ trụ quan Đạo giáo. ''Tennō'' (Thiên Hoàng), tước hiệu mới của triều đình Nhật Bản trong thời đại này, cũng được cho là có nguồn gốc từ vị thần tối cao của Đạo giáo, ''Tenko-Taitei''(天皇大帝) (''Thiên Hoàng Đại Đế''), vị thần của [[sao Bắc cực|sao Bắc Cực]] {{Fact|date=February 2007}}.
 
Niềm tin Đạo giáo cuối cùng được pha trộn với Shintō và Phật giáo tạo thành một thể thức nghi lễ mới. [[Onmyodo|Onmyōdō]], một loại bói đất và vũ trụ học Nhật Bản, là một trong những kết quả của việc kết hợp tôn giáo này. Trong khi thời kỳ Asuka bắt đầu với cuộc xung đột tôn giáo giữa các gia tộc thì sau đó, các tôn giáo từ bên ngoài này đã hòa nhập vào với niềm tin của dân bản địa.
Dòng 89:
[[Tập tin:Geishaboy500.jpg|nhỏ|phải|Mô hình Kudara Kannon ở [[Bảo tàng Anh]].]]
=== Nghệ thuật Asuka ===
Một số công trình kiến trúc xây dựng trong thời đại này vẫn còn đến ngày nay. Các công trình bằng gỗ ở [[Hōryū-ji]], xây dựng vào thế kỷ 7, đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa và các quốc gia Tây Á. Ví dụ như các cây cột ở [[Hōryū-ji]] khá giống với cột của điện [[Đền Parthenon|Parthenon]] của [[Hy Lạp cổ đại]], như ở các đường gờ dọc cột. ''Ngũ Trọng Tháp'' (''五重の塔'') là sự chuyển biến từ kiến trúc Ấn Độ giống gò đất, [[Phù đồ|Stupa]].
 
Những bức bích họa ở kofun Takamatsuzuka và Kitora, có từ thế kỷ thứ 5, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ bích họa [[nhà Đường]] và [[Cao Câu Ly|Goguryeo]].<ref>{{chú thích sách| url=http://books.google.com/books?ie=UTF-8&vid=ISBN0824820304&id=dCNioYQ1HfsC&dq=kofun+tumuli+korea&lpg=PA95&pg=PA95&sig=pklpAbfrrspwFUtncGBqMy1dks0| title=Sacred Texts and Buried Treasures: Issues on the Historical Archaeology of Ancient Japan| pages=95}}</ref><ref>{{chú thích web| url=http://whc.unesco.org/en/list/1091| title=Complex of Koguryo Tombs| publisher=UNESCO World Heritage Centre}}</ref>
 
Nghệ thuật tượng Phật Nhật Bản được cho là phỏng theo kiểu cách thời Lục Quốc ở Trung Hoa. Phong cách của tượng phật thời kỳ này được gọi là phong cách Tori, được lấy từ tên nhà điêu khắc nổi tiếng [[Kuratsukuri Tori]], cháu nội của một người nhập cư Trung Hoa [[Shiba Tatto]].<ref>{{chú thích web| url=http://concise.britannica.com/ebc/article-9380953/Tori-style| title=Tori style| work=Britannica Concise| publisher=Encyclopædia Britannica}}</ref> Một vài kiểu mẫu tiêu biểu của phong cách này bao gồm mắt rõ ràng, hình quả hạnh, và các nếp gấp được sắp xếp đối xứng trên trang phục. Đặc điểm nhận dạng rõ rệt nhất của các bức tượng này là việc thể hiện nụ cười được gọi là [[Nụ cười Cổ xưa]]. Kudara Kanon ở Hōryū-ji là bức tượng Phật nổi tiếng nhất của thời kỳ này.
 
=== Văn hóa Hakuhō ===
Giai đoạn thứ hai của nghệ thuật Phật giáo, tiếp nối thời kỳ nghệ thuật Asuka, được gọi là [[Văn hóa Hakuhō]] (''Bạch Phượng Văn Hóa'') ([[:ja:白鳳文化|白鳳文化]]) và bắt đầu từ [[Cải cách Taika]] cho đến ngày dời đô khỏi Nara năm 710. Trong suốt nửa sau thế kỷ 8, hàng loạt các bài hát và bài thơ được soạn và biểu diễn bởi người từ nhiều đẳng cấp khác nhau, từ chiến binh đến Thiên hoàng. Tập thơ sớm nhất được biết đến là [[Vạn diệp tập|Man'yōshū]]. Nó bao gồm tác phẩm của vài nhà thơ đáng chú ý như [[Công chú Nukata]] và [[Kakinomoto Hitomaro]]. [[Waka (thơ)|Waka]] (''Hòa Ca'') cũng xuất hiện như một thể thơ mới trong thời kỳ này. Nó được hình như một thuật ngữ để phân biệt lối thơ dân tộc với lối thơ từ Trung Hoa; dưới ảnh hưởng của thể thơ ''waka'', một thể thơ được yêu thích hơn ra đời với cái ''tanka''. Nó bao gồm 31 chữ chia thành 5 dòng, theo mẫu 5/7/5/7/7.<ref>{{chú thích web| url=http://www.mnsu.edu/emuseum/prehistory/japan/asuka/asuka-period.html| first=Taku| last=Kurashige| coauthors=Rie Yamada| title=Asuka Period| year=2003}}</ref>
 
== Các sự kiện ==
*538: Vương quốc Triều Tiên Baekje gửi đi một đoàn sứ thần để giới thiệu Phật giáo cho Thiên Hoàng Nhật Bản.
*593: [[Thánh Đức Thái tử|Thái tử Shotoku]] giữ trọng trách Nhiếp chính cho nữ [[Thiên Hoàng Suiko]] và truyền bá Phật giáo cùng với gia tộc Soga.
*600: Yamato gửi đoàn sứ bộ đầu tiên đến Trung Quốc kể từ năm 478.
*604: Thái tử Shotoku ban hành ''[[Thập thất điều Hiến pháp]]'' (十七条憲法) (Jūshichijō kenpō) theo phong cách Trung Hoa, dựa trên nguyên tắc Nho giáo, thực chất điều này đã khởi đầu Đế chế Nhật Bản.
*607: [[Thánh Đức Thái tử|Thái tử Shotoku]] xây dựng Chùa Hōryūji ở Ikaruga.
*645: Soga no Iruka và cha ông là Emishi bị giết trong [[sự biến Isshi]]. [[Thiên hoàng Kōtoku]] lên ngôi và củng cố hoàng quyền qua các gia đình quý tộc (xem [[Cải cách Taika]]), chia cả nước thành các tỉnh.
*663: Thủy quân Nhật Bản bị liên minh Đường-Silla đánh bại trong [[trận Baekgang]], không phục hồi được Baekje.