Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kháng Cách”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 107 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q23540 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{Cải cách Kháng Cách}}
:''Bài này nói về '''phong trào Kháng Cách''' (''Protestantism''), để biết thêm về một trào lưu thuộc nhánh Kháng Cách của Anh với tên gọi '''Tin Lành''' (''Evangelicalism''), xin đọc [[Phong trào Tin Lành]]''
Danh xưng '''Tin Lành''' thường được dùng để chỉ một cộng đồng các giáo hội khởi phát từ cuộc cải cách tôn giáo bắt đầu vào [[thế kỷ 16]] bởi [[Martin Luther]]. Là tu sĩ [[Dòng Augustine]], mục tiêu ban đầu của Luther là kêu gọi cải cách từ bên trong [[giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội Công giáo La Mã]], về sau ông tách rời khỏi [[Công giáo]] và thành lập [[Giáo hội Luther]]. Trong khi đó tại [[Châu Âu|Âu châu]], nhiều người có quan điểm tương tự như của Luther cũng bắt đầu tách khỏi Công giáo và thành lập các giáo phái khác nhau. Họ được gọi dưới một tên chung là '''Kháng Cách''', hay '''Tân giáo''' (để phân biệt với cựu giáo là [[Công giáo]]). Kháng Cách được xem là một trong ba nhánh chính của [[Kitô giáo|Cơ Đốc giáo]], cùng với [[Công giáo]] và [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo Đông phương]].
 
Cộng đồng Kháng Cách bao gồm các giáo hội thuộc [[Kitô giáo|Cơ Đốc giáo]] chấp nhận nền thần học của cuộc [[Cải cách Kháng Cách]]. Nền thần học này từ chối công nhận thẩm quyền của giáo hoàng, với niềm xác tín rằng chỉ có [[Kinh Thánh]] (không phải truyền thống hoặc quyền giải thích Kinh Thánh dành cho các chức sắc cao cấp của giáo hội<ref>O'Gorman, Robert T. and Faulkner, Mary. ''The Complete Idiot's Guide to Understanding Catholicism''. 2003, page 317.</ref>) là nguồn chân lý duy nhất, và tin rằng chỉ bởi [[ân điển]] của [[Thiên Chúa]] mà con người được [[cứu rỗi]]. Những luận điểm chính của thần học Kháng Cách được tóm tắt trong [[Năm Tín lý Duy nhất]].
 
Thuật từ Kháng Cách có nguồn gốc từ [[latinh|tiếng Latin]] ''protestatio'', nghĩa là công bố, được dùng để chỉ thư kháng nghị của các vương hầu (hoặc tuyển đế hầu – ''elector'') và đại biểu các thành phố thuộc [[Đế quốc La Mã Thần thánh|Thánh chế La Mã]] chống lại nghị quyết của [[Nghị viện Speyer]] năm [[1529]] , nghị quyết này khẳng định lập trường của Nghị viện Worm chống lại cuộc Cải cách Kháng Cách.<ref name="TECGlossary">[http://www.episcopalchurch.org/19625_15125_ENG_HTM.htm Definition of Protestantism at the Episcopal Church website]</ref> Lúc ấy, người ta gọi những người ủng hộ thư kháng nghị và lập trường cải cách là kẻ phản kháng. Từ đó, thuật từ Kháng Cách, bao hàm nhiều ý nghĩa khác nhau, được dùng để chỉ Cơ Đốc giáo phương Tây không công nhận thẩm quyền của Giáo hoàng.<ref name="TECGlossary"/>
 
Trong ý nghĩa rộng lớn hơn, tên gọi Kháng Cách dùng để chỉ các giáo hội khác nhau, tách khỏi Công giáo do chịu ảnh hưởng của [[Martin Luther]] và [[John Calvin]], người lãnh đạo một cuộc cải cách tôn giáo khác tại [[Geneve]], [[Thụy Sĩ|Thuỵ Sĩ]], cũng là người khởi xướng phong trào Calvinist. Xuất hiện một nhóm khác trong thời kỳ cải cách, thường được gọi là cải cách cực đoan. Trong khi đó nhiều nhóm tôn giáo tách khỏi Công giáo cũng được gán cho nhãn hiệu Kháng Cách dù chính họ cũng phủ nhận mọi liên hệ với Luther, Calvin hay với Công giáo.
==Lịch sử==
[[Tập tin:Luther46c.jpg|nhỏ|110px|phải|[[Martin Luther]]]]
{{chính|Cải cách Kháng Cách}}
Phong trào cải cách bùng nổ đột ngột tại nhiều nơi ở [[Châu Âu|Âu Châu]], nhưng tìm thấy sức mạnh của mình tại [[Đức]], nơi cuộc cải cách đã gây ra sự phân hoá sâu sắc giữa các vương hầu đang cai trị các phần lãnh thổ nước này. Tuy nhiên, nguyên nhân của sự bùng nổ nầy có thể giải thích bởi các biến động xảy ra trong suốt hai thế kỷ trước đó tại [[Tây Âu]].
 
Mầm mống của sự bất ổn âm ỉ bên trong giáo hội và đế quốc được đẩy lên đỉnh điểm khi xảy ra việc dời ngai giáo hoàng về [[Avignon]], [[Pháp]] ([[1308]]-[[1378]]) và sự tranh chấp giáo quyền giữa hai triều giáo hoàng tồn tại song song ([[1378]]-[[1416]]), gây ra chiến tranh giữa các vương hầu, các cuộc nổi dậy của nông dân và mối quan tâm về những thối nát trong lòng hệ thống các tu viện. Nó cũng giới thiệu chủ nghĩa quốc gia như là một nhân tố mới vào thế giới trung cổ. Phong trào phục hưng nhân văn khuyến khích giới khoa bảng quan tâm đến quyền tự do dành cho học thuật. Những cuộc tranh luận sôi nổi được tiến hành tại các viện đại học bàn đến các vấn đề như bản chất của giáo hội, nguồn gốc và giới hạn của thẩm quyền dành cho giáo hoàng, các công đồng và các vương hầu. Một trong những luận thuyết cấp tiến và gay gắt nhất đến từ [[John Wycliffe]] của [[Đại học Oxford]], và sau đó là từ [[Jan Hus]] của [[Đại học Praha]]. Trong nội bộ Giáo hội [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo La Mã]], cuộc tranh luận này bị khép lại bởi [[Công đồng Constance]] ([[1414]]-[[1418]]), xử tử Jan Hus và thiêu xác John Wycliffe như là kẻ dị giáo. Dù Công đồng Constance nỗ lực khẳng định và củng cố các khái niệm thời trung cổ về giáo hội và đế quốc, lại không thể giải quyết toàn diện các căng thẳng về ý thức quốc gia cũng như những phản kháng về thần học.
[[Tập tin:Ulrich Zwingli.jpg|trái|nhỏ|120px|[[Huldrych Zwingli]]]]
[[Martin Luther]], tu sĩ [[dòng Augustine]] và giáo sư tại Đại học [[Wittenberg]], chỉ muốn kêu gọi mở ra các cuộc tranh luận về [[phép giải tội]] (''indulgence''). Truyền thuyết cho rằng Luther đã treo 95 luận đề của mình trên cửa nhà thờ lâu đài Wittenberg, nơi dành để treo các thông báo của viện đại học. Tuy nhiên, những phản đối của ông đã thổi bùng lên sự bất mãn âm ỉ từ lâu trong sự đè nén.
 
Xảy ra cùng lúc với những biến động lại Đức là một phong trào khởi phát tại [[Thụy Sĩ|Thuỵ Sĩ]] dưới sự lãnh đạo của [[Huldrych Zwingli|Huldreich Zwingli]]. Vẫn tồn tại một số bất đồng giữa hai phong trào này dù họ chia sẻ với nhau một mục tiêu chung và đồng ý với nhau về hầu hết các vấn đề liên quan.
[[Tập tin:John Calvin - best likeness.jpg|nhỏ|phải|110px|[[John Calvin]]]]
Sau khi giáo hoàng quyết định trục xuất Luther và lên án cuộc cải cách, các tác phẩm của [[John Calvin]] tạo nên nhiều ảnh hưởng trong việc thiết lập một sự đồng thuận tương đối giữa các nhóm cải cách khác nhau tại [[Thụy Sĩ|Thuỵ Sĩ]], [[Scotland|Tô Cách Lan]], [[Hungary|Hung Gia Lợi]], Đức và những nơi khác. Việc [[Anh giáo]] tách rời khỏi La Mã dưới thời trị vì của [[Henry VIII của Anh|Henry VIII]], khởi đầu từ năm [[1529]] và hoàn tất vào năm [[1536]], đem [[Vương quốc Anh]] đồng hành với cuộc cải cách. Dù vậy, những thay đổi tại Anh được tiến hành dè dặt hơn các nơi khác ở Âu châu và người Anh chọn con đường trung dung giữa cựu giáo và tân giáo. (Ngày nay, về thần học, nhiều người Anh vẫn xem mình là Công giáo cải cách hơn là Kháng cách). Như thế phương Tây đã vĩnh viễn bị chia cắt thành hai phần: Công giáo La mã và Kháng Cách.
 
Về học thuật, phong trào Kháng Cách – chịu ảnh hưởng [[phục Hưng|thời kỳ phục hưng]] và được hậu thuẫn bởi những viện đại học ở [[Tây Âu]] – thu hút giới trí thức, chính trị gia, giới chuyên môn, thương gia và thợ thủ công. Kỹ thuật in ấn đang phát triển giúp quảng bá tư tưởng Kháng Cách, cũng như trợ giúp hữu hiệu cho việc ấn hành những bản dịch [[Kinh Thánh]] sang các ngôn ngữ địa phương. Các khái niệm về sự tự do của lương tâm và quyền tự do cá nhân, nảy sinh từ thời kỳ sơ khai của phong trào Kháng Cách, được định hình và phát triển qua một thời gian dài liên tục đối kháng với thẩm quyền của Giám mục thành Rôma và hệ thống tăng lữ của Giáo hội Công giáo. Dần dà, phong trào Kháng Cách vượt qua những giới hạn truyền thống, tập chú vào các vấn đề như lương tâm cá nhân, gieo mầm cho sự phát triển của tiến trình dân chủ hóa, và cho phong trào [[Thời kỳ Khai sáng|Khai sáng]] (''Enlightenment''), xảy ra trong các thế kỷ sau.
 
== Thần học căn bản ==
{{chính|Năm Tín lý Duy nhất}}
Có bốn chữ [[Latinh|La tinh]] có thể miêu tả niềm xác tín thần học của người Kháng cách, dù không phải tất cả trong số họ đều tin như vậy:
* '''''Solus Christus''''' (Duy Chúa Cơ Đốc): Chỉ có Chúa Cơ Đốc là đấng hoà giải giữa [[Thiên Chúa]] và con người. (I Ti:2.5)
* '''''Sola Scriptura''''' (Duy Thánh Kinh): Tín hữu Kháng Cách tin rằng truyền thống tông đồ chỉ có thể xuất phát từ các tông đồ là những người được chọn bởi chính Chúa Giê-xu Cơ Đốc, và như thế các truyền thống này chỉ có thể tìm thấy trong [[Kinh Thánh]] được viết bởi các tông đồ (I Côr 11.2; Ga: 1.8; II Tês: 2.15), vì vậy [[Kinh Thánh|Thánh kinh]] là thẩm quyền duy nhất cho lời giáo huấn của các tông đồ. Tín đồ Kháng Cách tin rằng chỉ có Kinh Thánh là chân truyền từ các tông đồ, hợp pháp và là chuẩn mực cho [[Đứcđức tin Kitô Đốcgiáo|đức tin]]. Tín hữu Kháng Cách bác bỏ đức tin Công giáo cho rằng Giám mục thành La Mã ([[Giáo hoàng]]) là [[Tông đồ]] của [[Giê-xusu|Chúa Giê-xu]] và giáo huấn của giáo hoàng có thẩm quyền tông đồ.
* '''''Sola Fide''''' (Duy đức tin): Trái với giáo lý Công giáo về [[công đức]] (Giacơ:2.24: ICôr: 13.2), về sự [[ăn năn (Cơ Đốc giáo)|ăn năn]] và phép giải tội, [[lễ Misa]] cho người chết, công đức của các thánh và của người tử đạo và về ngục luyện tội, tín đồ Kháng Cách tin rằng mọi tín hữu đều là thầy tế lễ, được hoà giải với [[Thiên Chúa]] chỉ bởi đức tin vào Chúa Giê-xu mà thôi (Rô:3.28; Eph:2.8-9).
* '''''Sola Gratia''''' (Duy [[ân điển]]): Đối nghịch với giáo lý Công giáo cho rằng cả đức tin và công đức là cần thiết cho sự xưng công bình (Eph:2.8-9; Gal:5.6), các nhà cải cách tin rằng sự cứu rỗi hoàn toàn là sự ban cho từ Thiên Chúa, vận hành bởi [[Chúa Thánh Linh]], do sự cứu chuộc của Chúa Giê-xu, chứ không bởi công đức của tín hữu (Xem [[Năm Tín lý Duy nhất]]).
 
Dòng 41:
 
=== Phong trào Ngũ Tuần ===
[[Phong trào Ngũ Tuần]] (''Pentecostalism'') khởi phát từ [[Hoa Kỳ]] vào đầu [[thế kỷ 20]], bắt nguồn từ phong trào Thánh khiết. Phong trào này chú trọng vào việc tìm kiếm các ân tứ (''gift'') của [[Chúa Thánh Linh]] được chép trong [[Tân Ước]]. Khẳng định việc nói tiếng lạ là chứng cớ của "[[thanh Tẩy|báp têm]] bởi Thánh Linh" đã trở nên đặc điểm của phong trào này. Họ cũng tập chú vào việc chữa bệnh bởi đức tin và thực hành các phép lạ. Dưới ảnh hưởng của phong trào này, nẩy sinh hàng trăm giáo phái tại Hoa Kỳ. Cũng phát sinh từ đây [[Phong trào Ân tứ]] (''charismatic movement'').
[[Tập tin:Billy Graham bw photo, April 11, 1966.jpg|nhỏ|110px|[[Billy Graham]].]]
=== Phong trào Tự do ===
[[Phong trào Tự do (Tin Lành)|Phong trào Tự do]] (''Liberalism'') nhằm giải thích [[Kinh Thánh|Thánh Kinh]] theo cách mới sao cho thích hợp với nhân sinh quan đương thời, phong trào tạo nhiều ảnh hưởng trong các giáo hội truyền thống của cộng đồng Kháng cách, đặc biệt vào cuối [[thế kỷ 19]] với [[Phong trào Tân phái]] (''Modernist'') và [[Phê bình Kinh Thánh]].
 
=== Phong trào Nền tảng ===
Dòng 50:
 
=== Phong trào Tin Lành Hiện đại ===
[[Phong trào Tin Lành|Phong trào Tin Lành Hiện đại]] (''Neo-evangelicalism'') bắt nguồn từ phong trào Nền tảng nhưng cố gắng làm giảm nhẹ các quan điểm cực đoan, cùng lúc bổ sung các khuynh hướng mới như hội nhập vào xã hội, dấn thân vào các công tác xã hội, phối hợp ở qui mô lớn công tác truyền bá [[Sách Phúc Âm|Phúc âm]], nâng cao học thuật biện giáo (''apologetics'').
 
== Các giáo phái Kháng Cách ==
Dòng 60:
Một trong những kết quả trực tiếp của cuộc Cải cách Kháng Cách là sự hình thành các giáo hội cấp quốc gia. Song, trong quan điểm của các nhà cải cách, các giáo hội này cũng chỉ là một phần trong hội thánh chung. Như vậy, các giáo hội cải cách thuộc về hội thánh chung, lập nền trên [[Năm Tín lý Duy nhất]], và bác bỏ thẩm quyền của giáo hoàng.
 
Ít có sự khác biệt về thần học giữa các giáo phái, và các giáo phái được thành lập thường dựa trên các đặc thù về địa dư và bộ máy tổ chức, với sự tập chú đặc biệt vào sự hiệp nhất trong hội thánh “vô hình” – quy tụ những người được cứu bởi huyết của [[Giê-su|Chúa Giê-xu]], vượt lên trên ranh giới của các tổ chức giáo hội “hữu hình” trên trần thế.
 
Phần lớn tín hữu Kháng Cách gia nhập vào một trong các cộng đồng Kháng Cách sau:
* [[Tái sinh|Calvinist]]/ Cải cách/ [[Giáo hội Trưởng Lão (Cơ Đốc)Nhiệm|Trưởng Lão]]
* [[Giáo hội Luther]]
* [[Báp-tít|Baptist]]
* [[Phong trào Giám Lý|Giám Lý]]
* [[Anh giáo]]
* [[Phong trào Ngũ Tuần|Ngũ Tuần]]
 
Nhiều phong trào đại kết ra đời trong nỗ lực liên kết và tái tổ chức các giáo hội Kháng Cách, nhưng chỉ có được những kết quả hạn chế. Hầu hết các giáo phái Kháng Cách đều đồng thuận với nhau về các giáo lý quan trọng cùng các giá trị căn cốt trong [[đức tin Kitô giáo|đức tin Cơ Đốc]], và tôn trọng sự khác biệt trong quan điểm liên quan đến các vấn đề không quan trọng trong thần học, giáo nghi và tổ chức. Khó có được con số chính xác, nhưng ước tính hiện có khoảng “33 000 giáo phái hiện diện trên 238 quốc gia”.<ref>World Christian Encyclopedia (2nd edition). [[David V. Barrett|David Barrett]], George Kurian and Todd Johnson. New York: Oxford University Press, 2001</ref>
 
Có khoảng 593 triệu<ref name="ProbyCo">[[:en:Protestantism by country|Protestantism by country]]</ref> tín hữu Kháng Cách trên toàn thế giới, bao gồm 170 triệu tại [[Bắc Mỹ]], 140 triệu tại [[Châu Phi|Phi Châu]], 120 triệu tại [[Châu Âu|Âu Châu]], 70 triệu tại [[châu Mỹ La tinh]], 60 triệu tại [[Châu Á|Á Châu]] và 10 triệu tại [[Châu Úc|Úc Châu]]. Như vậy cộng đồng Kháng Cách chiếm khoảng 27% tổng số gần 2 tỉ<ref>"between 1,250 and 1,750 million adherents, depending on the criteria employed": McGrath, Alister E. ''[http://books.google.com.hk/books?id=ZYN3Rowp8ZYC&pg=PR16&lpg=PR16&source=web&ots=bNVoHZwx6H&sig=D961IonSSKBgItV4v57UCeYhvs0 Christianity: An Introduction]''. 2006, page xv1.</ref><ref>"1.5 thousand million Christians": Hinnells, John R. ''The Routledge Companion to the Study of Religion''. 2005, page 441.</ref> tín hữu [[Kitô giáo|Cơ Đốc giáo]].
 
==Truyền giáo==
Dòng 79:
Song, trong các thế kỷ tiếp theo, ngày càng có nhiều nhà truyền giáo Kháng Cách được gởi đến nhiều xứ sở trên khắp thế giới để công bố thông điệp Cơ Đốc cho các dân tộc. Tại [[Bắc Mỹ]], trong số các nhà truyền giáo tiếp xúc với người Mỹ bản địa có [[Jonathan Edwards]], nhà thuyết giáo nổi tiếng của cuộc [[Đại Tỉnh thức|Đại Thức tỉnh]], từ năm 1750, ông dành phần còn lại trong đời để chuyên tâm truyền giáo cho người dân bộ lạc Housatonic, và giúp họ chống lại sự bóc lột của người da trắng.
===Giáo hội Moravian===
[[Giáo hội Moravian]] đặc biệt quan tâm đến công cuộc truyền giáo. Khi giáo hội chỉ quy tụ 300 tín hữu tại [[Herrnhut]], họ đã cử người đi truyền giáo. Trong vòng 30 năm, giáo hội đã gởi hàng trăm giáo sĩ đến nhiều nơi trên thế giới như vùng [[Vùng Caribe|Ca-ri-bê]], [[Bắc Mỹ]] và [[Nam Mỹ]], [[Bắc Cực]], [[Châu Phi|Phi châu]], và vùng [[Viễn Đông]].
[[Tập tin:CareyEngraving.jpg|nhỏ|140px|[[William Carey]], người được xem là "Cha đẻ công cuộc truyền giáo đương đại".]]
Họ là giáo hội Kháng Cách đầu tiên thi hành mục vụ cho người nô lệ, cũng là những nhà truyền giáo Kháng Cách đầu tiên tìm đến những vùng đất mới để quảng bá thông điệp phúc âm. Từ năm 1732, đã có một cơ sở truyền giáo Moravian được thiết lập trên đảo St Thomas thuộc vùng Ca-ri-bê.<ref name="S&H">''Seedtime and Harvest: A Brief History of the Moravian Church in Jamaica 1754-1979'', S. U. Hastings & B. L. MacLeavy, The Moravian Church Corporation, 1979.</ref>
 
===William Carey===
Tại Anh khoảng năm 1780, một người thợ đóng giày trẻ tuổi tên [[William Carey]] bắt đầu đọc một quyển sách của [[Jonathan Edwards]] viết về một mục sư đã quá cố, [[David Brainerd]], người đã tận tụy giúp đỡ người da đỏ ở Bắc Mỹ bằng cách mở trường học và rao giảng phúc âm; Carey cũng bị thu hút bởi những chuyến du hành của [[James Cook]] khám phá quần đảo [[Polynesia]]. Từ đó, ông chú tâm đến trách nhiệm truyền giáo cho các dân tộc trên thế giới. Carey tự học [[tiếng Hy Lạp|tiếng Hi Lạp]], [[tiếng Hebrew|Hebrew]], [[tiếng Ý|Ý]], [[tiếng Hà Lan|Hà Lan]], [[tiếng Pháp|Pháp]], và tìm đọc nhiều sách.
 
Năm 1792, Carey viết tiểu luận nổi tiếng ''Tra vấn về Bổn phận của Cơ Đốc nhân sử dụng mọi phương tiện để đem người khác đến với Đức tin Cơ Đốc''. Không phải là một cuốn sách thần học khô khan, Carey sử dụng những dữ liệu địa lý và dân tộc học tốt nhất thời ấy để vẽ bản đồ và trình bày số lượng các dân tộc cần nghe Phúc âm, giúp khởi phát phong trào truyền giáo bùng nổ mạnh mẽ cho đến nay. Sau 34 năm hoạt động truyền giáo, năm 1834, Carey từ trần tại [[Serampore]], [[Ấn Độ]].
 
===Thomas Coke===
[[Thomas Coke]], giám mục đầu tiên của Giáo hội Giám Lý Mỹ, được gọi là “Cha đẻ công cuộc truyền giáo Giám Lý”. Sau một thời gian ở Mỹ để cùng Giám mục [[Francis Asbury]] gây dựng hội thánh còn non trẻ, Coke rời tân thế giới để hiến mình cho công cuộc truyền giáo ở [[Vùng Caribe|Tây Ấn]]. Khi ở Mỹ, ông đã hoạt động tích cực để tìm kiếm sự hỗ trợ cho các cơ sở truyền giáo, đồng thời tuyển dụng thêm nhân lực.
 
Dù qua đời năm 1803 khi đang trên tàu đến [[Sri Lanka]] để mở cơ sở truyền giáo mới, di sản của ông để lại cho các tín hữu Giám Lý – lòng nhiệt huyết cho công cuộc truyền giáo - vẫn còn đến ngày nay.
Dòng 99:
 
===Hội nghị Truyền giáo Edinburgh 1910===
Năm 1910, Hội nghị Truyền giáo Edinburgh được tổ chức ở [[Scotland]] dưới quyền chủ tọa của [[John Mott]] (khôi nguyên giải [[Giải Nobel Hòa bình|Nobel Hòa bình]] năm 1946), nhà lãnh đạo tích cực của SVM và là một tín hữu [[Phong trào Giám Lý|Giám Lý]]. Hội nghị xem xét tình trạng truyền bá phúc âm, phiên dịch [[Kinh Thánh]], vận động sự hỗ trợ của hội thánh, và huấn luyện giới lãnh đạo địa phương. Hội nghị không chỉ thiết lập cơ chế hợp tác liên giáo hội cho công cuộc truyền giáo mà còn lập nền cho phong trào đại kết tôn giáo.
 
===Hội Phiên dịch Kinh Thánh Wiclyffe===
Dòng 113:
Đức tin Kháng Cách được truyền bá tại [[Việt Nam]] từ cuối [[thế kỷ 19]] do nỗ lực của các [[nhà truyền giáo]] thuộc [[Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp]] (''Christian and Missionary Aliance; C&MA''). Năm [[1911]] thường được kể là năm đánh dấu Kháng Cách đến Việt Nam. [[Hội thánh Tin Lành Việt Nam]] (''The Evangelical Church of Vietnam'') được xem là tiêu biểu cho cộng đồng Kháng Cách, cho đến nay vẫn là giáo hội Kháng Cách có số tín hữu đông nhất. Có lẽ vì vậy danh xưng '''Tin Lành''' (''Evangelical'') thường được dùng thay thế cho Kháng Cách (''Protestant''). Tin Lành có nghĩa là tin tức tốt lành theo cách gọi của các nhà truyền giáo đầu tiên của Kháng Cách tại Việt Nam.
 
Cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam được xem "là tôn giáo có số lượng tín đồ tăng nhanh nhất so với các tôn giáo khác", với khoảng 1 triệu<ref>[http://phapluattp.vn/20120606114112467p0c1013/ca-nuoc-co-1-trieu-tin-do-dao-tin-lanh.htm "Cả nước có 1 triệu tín đồ Tin Lành" - Pháp Luật TPHCM]</ref><ref>Khó có thể đưa ra con số chính xác về số tín hữu Kháng Cách tại Việt Nam, nhưng theo ước tính được nhiều người chấp nhận, con số này là khoảng 1 triệu. Xem [[:en:Protestantism by country|Protestantism by country]]</ref> tín hữu thuộc nhiều hệ phái khác nhau rải rác trên toàn quốc, phần lớn tập trung tại miền Nam, trong số đó có nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số tại [[Tây Nguyên|Tây nguyên]].
 
==Xem thêm==
Dòng 120:
*[[Martin Luther]]
*[[John Calvin]]
*[[Huldrych Zwingli|Huldreich Zwingli]]
 
== Chú thích ==