Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Tây An”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q7862137 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
[[Tập tin:Chùa Tây An núi Sam.jpg|nhỏ|phải|250px|Chùa Tây An núi Sam]]
'''Chùa Tây An''' còn được gọi là '''Chùa Tây An Núi Sam''' hay '''Tây An cổ tự''', là một ngôi [[chùa]] [[Phật giáo]] tọa lạc tại ngã ba, dưới chân núi [[núi Sam]] (nay thuộc [[Núi Sam (phường)|phường Núi Sam]], [[châu Đốc (thị xã)|thị xã Châu Đốc]], tỉnh [[An Giang]]).
 
Ngôi chùa này đã được Bộ Văn Hóa xếp hạng là di tích "kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia" theo quyết định số: 92/VH.QĐ ngày [[10 tháng 7|10 tháng 07]] năm [[1980]]; và đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận đây là "ngôi chùa có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật [[Ấn Độ]] và kiến trúc cổ dân tộc đầu tiên tại [[Việt Nam]]" <ref>Theo [http://www.tin247.com/chua_tay_an_lap_ky_luc_viet_nam-13-21633243.html].</ref>.
 
== Lịch sử ==
Năm [[1847]], [[Tổng đốc]] An-Hà ([[An Giang]] và [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]]) là [[Doãn Uẩn]] ([[1795]]-[[1850]]) vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân [[Xiêm|Xiêm La]], bình định được [[Chân Lạp]], nên đã cho xây dựng một ngôi chùa bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là '''Tây An tự''' với hàm ý trấn yên bời cõi [[hướng Tây|phía Tây]] <ref>Theo ''Địa chí An Giang'' (Tập 2, UBND tỉnh An Giang ấn hành, 2007, tr. 243). Ngoài ra, tên "Tây An" còn là đảo tự tên ''"An Tây" mưu mưu tướng'' mà nhà vua đã phong tặng cho Doãn Uẩn. '''Thông tin liên quan''': Tương truyền trước khi Tổng đốc Doãn Uẩn lập chùa Tây An vào năm [[1847]], thì nơi ấy đã có một am thờ bằng tre lá do [[Tổng đốc]] Nguyễn Nhật An lập vào năm [[1820]] dưới triều vua [[Minh Mạng]] (theo Cổng thông tin điện tử tỉnh An Giang [http://www.angiang.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3j3oBBLczdTEwML_wBzA09_r0BnE18nIwNHM_2CbEdFAIy2rWE!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/web+content/angiang/dulich/khamphaangiang/dulichtinnguong/hua]). Tuy nhiên, Tổng đốc Nguyễn Nhật An là một nhân vật được dân gian phối ghép suy tôn lên. Trong lịch sử [[nhà Nguyễn]] không có nhân vật Nguyễn Nhật An giữ chức [[Tổng đốc]] năm [[1820]], vì chỉ xuất hiện chức vụ Tổng đốc ở các tỉnh [[Nam Kỳ]] từ sau cuộc cải cách hành chính của [[Minh Mạng]] năm [[1832]]. Trước đó, vùng Châu Đốc nơi chùa Tây An tọa lạc, thuộc trấn Vĩnh Thanh (năm [[1832]] được chia thành 2 tỉnh là [[An Giang]] và [[Vĩnh Long]]) do quan trấn thủ Vĩnh Thanh là [[Thoại Ngọc Hầu|Nguyễn Văn Thoại]] quản hạt vào năm [[1820]].</ref>.
 
Năm [[1861]], [[Hòa thượng]] Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa) cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm [[1958]], Hòa thượng Thích Bửu Thọ ([[1893]]–[[1972]]) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Dòng 16:
 
Sách ''[[Đại Nam nhất thống chí]]'' viết về chùa Tây An như sau:
:''Chùa ở địa phận thôn [[Vĩnh Tế, Châu Đốc|Vĩnh Tế]], huyện Tây Xuyên, nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm [[Thiệu Trị]] thứ 7 ([[1847]]). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy''<ref>Dẫn lại theo Nguyễn Hiền Đức, ''Lịch sử Phật giáo [[Đàng Trong|Đàng trong]]''. NXB TP. [[Hồ Chí Minh]], 1995, tr.380.</ref>.<ref>''Đại Nam nhất thống chí'', quyển 30, tỉnh An Giang, mục Chùa quán, trang 186.</ref>
 
== Kiến trúc ==
Chùa Tây An tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, trong khuôn viên có diện tích 15.000 [[mét vuông|m2]]. Phía sau có [[núi Sam]] như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh thẫm. Điểm ấn tượng nhất của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa.
 
Chùa cất theo lối chữ “tam”, có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật [[Ấn Độ]] và kiến trúc cổ dân tộc Việt. Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như [[gạch]] [[ngói]], [[xi măng]]. Nơi cổng tam quan là tượng [[Quan Âm Thị Kính (truyện thơ)|Quan Âm Thị Kính]], bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 [[m]].
 
Mặt tiền chùa, ở giữa là tháp thờ [[Phật]] cao hai tầng. Tầng trên là tượng [[Phật]] đứng giữa lầu cao, mái tròn cong, đỉnh nhọn như các tháp xưa ở [[Ấn Độ]]. Bốn cột tháp ở tầng dưới có các hộ pháp trấn giữ, phía trước có tượng hai con [[voi]]: bạch tượng và hắc tượng.
Dòng 27:
Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng ''tứ linh'' (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm [[Tự Đức]] thứ 32 ([[1879]]).
 
Trong chính điện có khoảng 150 <ref>Theo Nguyễn Hữu Hiệp, "Tây An Cổ Tự ở Núi Sam" trong ''Nam Bộ đất và người'' (Viện Khoa học Lịch sử TP. HCM và NXB Trẻ hợp tác xuất bản, 2005, tr. 426-427-428).</ref> pho tượng lớn nhỏ: tượng [[Phật]], [[Bồ Tát|Bồ tát]], [[A-la-hán|La hán]], [[Bát bộ kim cang]], [[Ngọc Hoàng Thượng đế|Ngọc hoàng]], Huỳnh đế, Thần nông v.v...Đa số tượng đều làm bằng danh mộc, chạm trổ công phu và mỹ thuật, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc [[Việt Nam]] vào [[thế kỷ 19]]. Ngoài ra chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ.
 
== Trùng tên ==