Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Traianus”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 72 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q1425 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 28:
|}}
 
'''Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus''' hay còn gọi là '''Trajan''' ([[18 tháng 9]] năm [[53]] – [[9 tháng 8]] năm [[117]]), là vị [[Hoàng đế La Mã|Hoàng đế]] của [[Đế quốc La Mã]], trị vì từ năm [[98]] tới khi qua đời năm 117. Sinh ra trong một gia đình không có nguồn gốc quí tộc<ref>Justian Bennett, Trajan: Optimus Princeps, 2nd Edition, Routledge 2000, 12.</ref> tại tỉnh [[Hispania Baetica]] (nay là [[Tây Ban Nha]]), ông được giáo dưỡng như một người lính và có tài điều binh khiển tướng.<ref>[[Edward Gibbon]], ''The history of the decline and fall of the Roman Empire'', Tập 1, trang 6</ref> Traianus làm võ quan (cũng giống như cha ông năm xưa<ref name="WildfeuerGiớithiệu"/>) dưới triều Hoàng đế [[Domitianus (Hoàng đế La Mã)|Domitianus]], phục vụ trong [[Quân đội La Mã]] dọc theo biên giới với người [[German]], và đánh dẹp cuộc nổi dậy của [[Lucius Antonius Saturninus|Antonius Saturninus]] vào năm [[89]]. Vào ngày [[18 tháng 9]] năm [[96]], sau khi Domiatianus chết, [[Nerva|Marcus Cocceius Nerva]], một Nghị sỹ già nua và không có con nối dõi lên làm Hoàng đế, nhưng không được lòng ba quân. Chỉ sau một năm cầm quyền đầy biến loạn, lực lượng [[Vệ binh Pháp quan]] (tức ''Praetorian Guard'') uy hiếp, buộc Nerva phải nhận Traianus làm con nuôi và làm người kế vị. Sau hai năm trị quốc,<ref name="WildfeuerGiớithiệu"/> Hoàng đế Nerva mất ngày [[27 tháng 1]] năm [[98]] và Traianus lên kế vị một cách yên ổn. Ông là vị Hoàng đế được lòng dân và [[đồng tính luyến ái]].<ref name="CassiusDio373">Cassius Dio Cocceianus, ''Dio's Roman history'', trang 373</ref>
 
Trên cương vị người quản lý dân sự, Hoàng đế Traianus được ghi nhớ bởi những chương trình xây dựng quy mô, làm biến đổi hẳn kinh thành [[Roma|La Mã]] và để lại những công trình lưu truyền hậu thế như Cột trụ Traianus, Chợ Traianus và Quảng trường Traianus. Tuy nhiên, ông là một vị Hoàng đế có một bành trướng đất nước<ref name="DavidCosonBiaTruoc">David Corson, ''Trajan and Plotina'', Bìa trước</ref> và gặt hái được những chiến thắng rực rỡ nhất. Vào năm [[101]], ông thân chinh điều động binh mã phạt Vương quốc [[Dacia]] để chống nhau với vua [[Decebalus]], đánh tan nát quân Dacia trong trận đánh khốc liệt taị [[Trận Tapae lần thứ hai|Tapae]] lần thứ hai vào năm [[102]], và hoàn toàn chinh phục nước Dacia vào năm [[106]]. Vào năm [[107]], Traianus thân hành kéo đại binh tiến xa hơn về phía Đông và đánh chiếm nước [[Nabatea]], thành lập tỉnh [[Arabia Petraea]] dù rằng nó chẳng tồn tại được bao lâu. Sau đó ông trị quốc tương đối thái bình thịnh trị, và rồi ông lại rời khỏi kinh đô La Mã mà khởi binh lần cuối cùng vào năm [[113]] để chinh phạt Đế quốc [[Người Parthia|Parthia]], tiến tới tận thành phố [[Susa]] vào năm [[116]], bành trướng Đế quốc La Mã tới cực điểm. Ông là vị Hoàng đế La Mã duy nhất sánh ngang với [[Alexandros Đại đế|Alexandros Đại Đế]] trong việc hành binh tới [[vịnh Ba Tư]].<ref name="Crompton106"/> Trong chiến dịch này, ông lâm bệnh, rồi tới cuối năm [[117]], trên chuyến hải hành trở về La Mã, bệnh của ông phát nặng và Hoàng đế Traianus mất ngày [[9 tháng 8]] tại thành phố [[Selinus]]. Ông được Viện Nguyên lão La Mã tôn xưng là một vị thần, tro cốt được chôn cất tại [[Lăng Augustus]]. Ông được kế vị bởi người cháu họ là Hoàng đế [[Hadrianus]] - người có tư tưởng đối lập với chính sách bành trướng liên miên của ông.<ref name="WIllDurant413"/>
 
Những vùng đất ngày nay là [[Iraq]], [[Iran]], [[Ả Rập]] và cả miền Nam nước [[Nga]] đều đã nằm dưới vó ngựa của vị Hoàng đế kiệt xuất Traianus và những chiến binh tinh nhuệ của ông.<ref name="DavidCosonBiaTruoc"/> Với tư cách là một bậc đại anh quân vô cùng mạnh mẽ,<ref name="Crompton106"/> tên tuổi của ông được lưu truyền trong lịch sử, mỗi hoàng đế sau ông được tôn xưng bởi Nghị viện bằng câu ''felicior Augusto, melior Traiano'', nghĩa là "mong Hoàng thượng được may mắn hơn Augustus và tài giỏi hơn Traianus". Khác với nhiều vua chúa vốn được ca ngợi trong lịch sử nhân loại, tên tuổi và uy tín của ông không hề bị suy giảm trong suốt hơn 19 thế kỷ. Trong số những nhà thần học Thiên chúa giáo thời [[Trung Cổ]], ông được coi là một người [[Thuyết đa thần|Đa thần giáo]] có đức hạnh, trong khi nhà sử học nước [[Anh]] thứ thế kỷ 18 là [[Edward Gibbon]] truyền bá khái niệm [[Ngũ hiền đế]], Hoàng đế Traianus là một trong số đó.<ref>{{chú thích sách|title=Idiots guide to the Roman Empire.|last=Nelson|first=Eric|year=2002|publisher=Alpha Books|isbn= 0-02-864151-5|pages=207–209}}</ref> Cũng trong thế kỷ thứ 18, các danh sĩ thường lấy hình ảnh đáng kính của Traianus để tôn vinh các bậc anh quân cuả [[Thờithời kỳ Khai Sángsáng|trào lưu Khai Sáng]].<ref name="ReferenceA">Derek Edward Dawson Beales, ''Enlightenment and reform in 18th-century Europe'', trang 75</ref><ref>[[Nancy Mitford]], ''Voltaire in love'', trang 101</ref> Thời nay, danh thơm hiển hách của ông vẫn không hề mờ phai.<ref>Julian Bennett, [http://books.google.com.vn/books?id=qk_tofvS8EsC&dq=trajan%22&source=gbs_navlinks_s ''Trajan: optimus princeps : a life and times'']</ref>
 
== Thời tuổi trẻ và lên tới đỉnh cao quyền lực ==
{{Triều đại Nerva-Traiani}}
Marcus Ulpius Nerva Traianus là con trai của Marcia và [[Marcus Ulpius Traianus]], một Nghị viên có thế lực trong Viện nguyên lão La Mã và là một vị tướng xuất thân từ dòng họ [[Ulpius]]. Gia đình ông chuyển đến sinh sống tại [[Hispania]] (bán đảo [[Bán đảo Iberia|Iberia]], bao gồm lãnh thổ [[Tây Ban Nha]] và [[Bồ Đào Nha]] bây giờ), tại tỉnh [[Hispania Baetica]] ở phần đất nay là tỉnh [[Andalusia]] (nay thuộc Tây Ban Nha), một tỉnh đã hoàn toàn La Mã hóa và được gọi là nam Hispania. Traianus cũng chỉ là một trong số rất nhiều người nổi tiếng thuộc dòng họ Ulpius, dòng họ này tồn tại rất lâu ngay cả sau khi ông đã qua đời. Chị cả của ông là [[Ulpia Marciana]] và cháu gái là [[Salonina Matidia]].
 
Ông sinh ngày [[18 tháng 9]] năm [[53]], tại thành phố [[Italica]]. Khi còn trẻ, ông thăng tiến bằng con đường binh nghiệp, phụ vụ tại những vùng đất bất ổn nhất tại các miền biên viễn của đế quốc. Trong thời kỳ 76–77, cha của ông làm quan [[Tổng trấn]] [[Syria]] (''[[Legatus]] pro praetore Syriae''), bản thân ông nắm chức vụ ''[[Hành chính quan]] chiến đoàn - Tribunus legionis''. Vào năm [[76]], chính tại quê hương của ông, người cháu ông là [[Hadrianus|Publius Aelius Hadrianus]] chào đời. Khi phụ thân của Hadrianus mất vào năm [[86]], Traianus trở thành một trong những người giáo dưỡng đứa bé (chính Hadrianus là Hoàng đế kế tục của ông sau này).<ref name="WIllDurant413"/> Traianus được đề cử làm quan [[Tổng tài]] và đưa [[Apollodorus người xứ Damascus]] về kinh thành [[Đế quốc La Mã|La Mã]] cùng ông khoảng năm 91. Dưới triều Hoàng đế [[Domitianus (Hoàng đế La Mã)|Domitianus]], ông cũng được phong làm quan Toàn quyền xứ Pannonia.<ref name="Juliebennix"/> Sang triều Hoàng đế [[Nerva]], ông tham chiến trong các chiến dịch dọc theo [[rhine|sông Rhine]] do tiên đế [[Domitianus (Hoàng đế La Mã)|Domitianus]] khởi xướng, do Nerva không được lòng ba quân và phải dựa vào những tướng lĩnh dưới quyền để duy trì sự ủng hộ của các chiến binh. Để làm được điều này, khi hay tin Traianus đại phá tan tành [[người Suebi]] thì Hoàng đế Nerva nhận ông làm con nuôi ''vắng mặt'' với đế hiệu '''Nerva Caesar'''. Vào ngày [[25 tháng 10]] năm 97, Nerva chính thức ban bố Thánh chỉ chọn Traianus là người kế thừa ngôi báu.<ref name="Juliebennix">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang IX</ref> Theo cuốn ''[[Lịch sử Augusta]] - Biên sử các Hoàng đế La Mã'', chính Hadrianus là người mang tin cho Traianus về việc ông được chọn làm con nuôi Hoàng gia.<ref>Augustan History, ''Life of Hadrian'' [http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/Historia_Augusta/Hadrian/1*.html#2.5 2.5–6].</ref> Sau khi Hoàng đế Nerva mất ngày [[27 tháng 1]] năm [[98]], vào tháng 2 năm ấy Hadrianus đưa hung tin đến cho Traianus, khi đó thuộc địa Agrippina ở miền Hạ Germania. vốn rất được lòng người, kế vị một cách êm thấm. Trong Mùa Xuân, vị tân Hoàng đế đi thị sát ở vùng biên cương sông Danube.<ref name="Juliebennix"/>
 
== Hoàng đế La Mã ==
Dòng 51:
Không lâu sau khi lên ngôi Hoàng đế, Marcus Ulpius Nerva Traianus đã bắt đầu tiến lên trên con đường vinh quang quân sự.<ref name="WildfeuerGiớithiệu"/> được biết đến như là một trong những vị thống soái lừng danh nhất trong lịch sử [[thế giới]], đặc biệt là do cuộc chinh phục hiển hách của ông ở vùng Cận Đông, nhưng ban đầu là hai cuộc chiến tranh chống lại người Dacia - biến họ thành một vương quốc chư hầu (101 - 102), tiếp theo xáp nhập vào Đế chế vùng biên giới Danube. Xưa kia, người Dacia đã bắt người La Mã phải triều cống, vì vậy ông quyết tâm tiêu diệt Dacia để gỡ gạc cái nỗi nhục này.<ref name="EdwardGibbon6">Edward Gibbon, Henry Hart Milman, ''The history of the decline and fall of the Roman Empire'', Tập 1, trang 6</ref>
 
Trong chiến dịch phạt Dacia lần đầu tiên vào khoảng từ [[tháng ba|tháng 3]] đến [[tháng năm|tháng 5]] năm 101, Hoàng đế Traianus thân chinh điều động binh mã<ref name="Romanis REquote05">{{chú thích web|url=http://www.roman-emperors.org/assobd.htm#t-inx|title=De Imperatoribus Romanis|work=An Online Encyclopedia of Roman Emperors|accessdate=2007-11-08|quote=Because the Dacians represented an obstacle against Roman expansion in the east, in the year 101 the emperor Trajan decided to begin a new campaign against them. The first war began on 25 March 101 and the Roman troops, consisting of four principal legions (X Gemina , XI Claudia , II Traiana Fortis, and XXX Ulpia Victrix), defeated the Dacians.}}</ref> vựơt qua cho bờ phía Bắc của [[sông Donau|sông Danube]] và đánh tan nát quân Dacia ở gần hoặc trong một con đèo (Carpati) tên gọi là Tapae (xin xem bài [[Trận Tapae lần thứ hai]]). Đây là một thất bại thảm hại của Decebalus.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang 10</ref> Tuy nhiên, các chiến binh tinh nhuệ của Traianus phải chịu nhiều thiệt hại trong trận đánh kịch liệt này, do đó ông không thể tấn công thành Sarmizegetuza để kết liễu luôn kẻ địch, mà ông phải đóng quân tại đó trong hôn một năm để triệu tập và động viên tinh thần, sức khỏe của ba quân.<ref name="Romanis REquote03">{{chú thích web|title=Battle of Sarmizegetusa (Sarmizegetuza), A.D. 105|url=http://www.roman-emperors.org/assobd.htm#t-inx|title=De Imperatoribus Romanis|work=An Online Encyclopedia of Roman Emperors|accessdate=2007-11-08|quote=Although the Dacians had been defeated, the emperor postponed the final siege for the conquering of Sarmizegetuza because his armies needed reorganization. Trajan imposed on the Dacians very hard peace conditions: [[Decebalus]] had to renounce claim to some regions of his kingdom, including Banat, Tara Hategului, Oltenia, and Muntenia in the area south-west of Transylvania. He had also to surrender all the Roman deserters and all his war machines. At Rome, Trajan was received as a winner and he took the name of Dacicus, a title that appears on his coinage of this period. At the beginning of the year 103 A.D., there were minted coins with the inscription: IMP NERVA TRAIANVS AVG GER DACICVS.}}</ref>
 
Vua Decebalus là một kẻ thù đáng gờm của Traianus, do ông ta vẫn còn cố chấp sau khi thua trận.<ref name="EdwardGibbon6"/> Trong suốt Mùa Đông năm tới, vua Decebalus thân chinh xua binh tướng tiến đánh quân La Mã trên toàn vùng hạ lưu sông Danube, nhưng bị Quân đội của Traianus đánh đại bại. Trên đà chiến thắng, Hoàng đế Traianus thân hành cầm binh đánh sâu vào Vương quốc của người Dacia và buộc vua Decebalus phải thần phục ông một năm sau đó.
Dòng 61:
 
=== Bành trướng về phương Đông ===
Cùng thời gian, vị vua cuối cùng được người La Mã bảo trợ là [[Rabbel II Soter]] của [[Nabatea]], qua đời. Sự kiện này có lẽ đã thúc đẩy Hoàng đế Traianus tiến hành sát nhập Nabatea, mặc dù lý do cụ thể của việc sát nhập này không được biết rõ, cũng như phương thức tiến hành sát nhập. Một số hình khắc cho thấy có lẽ một chiến dịch quân sự, với lực lượng từ các xứ [[Syria]] và [[Ai Cập]], đã được tiến hành. Điều chắc chắn là tới năm [[107]], các binh đoàn [[Lê dương La Mã]] đã đồn trú tại các khu vực quanh [[Petra]] và [[Bostra]], như được chỉ ra trong các cuộn giấy [[giấy cói|papyrus]] tìm thấy ở Ai Cập. Đế quốc La Mã mở rộng thêm tỉnh [[Arabia Petraea]], tức tỉnh Ả Rập (nay là phần phía Nam [[Jordan]] và Tây Bắc [[Ả Rập Saudi|Ả Rập Xê-út]]), được Hoàng đế công nhận vào năm 107. Những bi văn và tài liệu ở tỉnh đã cho thấy sự kiện này.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang 179</ref>
=== Mở rộng Đế chế đến cực điểm ===
[[Tập tin:RomanEmpire 117.svg|nhỏ|phải|300px|Biên giới đế quốc La Mã dưới thời Trajan ([[117]])]]
 
Vào năm [[113]], ông tiến hành chiến dịch cuối cùng để phản ứng lại việc Đế quốc [[Người Parthia|Parthia]] tôn một nhân vật đối lập với người La Mã lên làm vua nước [[Armenia]], một vương quốc bị cả hai đế quốc áp đặt bá quyền kể từ thời Hoàng đế [[Nero]]. Đây sẽ là một thử thách hết sức lớn lao đối với ông và ba quân.<ref name="WildfeuerGiớithiệu">C. R. H. Wildfeuer, [http://books.google.com.vn/books?id=y1C-PQAACAAJ&dq=%22trajan%22 ''Trajan - Lion of Rome: The Untold Story of Rome's Greatest Emperor'']</ref> Tuy các võ tướng của ông đều khuyến khích ông xuất chinh do họ muốn có được vinh hiển cho riêng mình, Publius Aelius Hadrianus phản đối, bởi lẽ Hoàng đế đã hao tổn nguồn nhân lực của đất nước trong cuộc chinh phạt Dacia do đó không nên đẩy đất nước một lần nữa vào cảnh binh đao, và lại đất Parthia quá xa để có thể phòng thủ.<ref name="WIllDurant413">Will Durant, ''Caesar and Christ: A History of Roman Civilization and of Christianity from Their Beginnings to A.D. 325'', trang 415</ref> Nhưng, Hoàng đế Traianus tổ chức hành binh đánh Armenia, lật đổ tân vương nước này và sáp nhập luôn cả Armenia vào lãnh thổ đất nước. Tiếp đó, ông thân hành tiến quân về phương Nam, đánh thẳng vào chính quốc Parthia, hạ các thành phố lớn [[Babylon]], [[Seleucia]] và cuối cùng là kinh đô [[Ctesiphon]] năm [[116]]. Ngay trước khi ca khúc khải hoàn kéo đoàn binh thắng trận vào thành Ctesiphon, ông đã được Viện Nguyên lão La Mã đề cử làm ''Parthicus'', tức "Nhà chinh phạt của giặc Parthia".<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang 198</ref> Ông tiếp tục nam tiến về phía vịnh [[Iran|Ba Tư]], rồi tuyên bố xứ [[Babylon]] là một tỉnh mới của Đế chế. Khi đến thành phố [[Basra]], ông đưa mắt nhìn ra bờ biển vịnh Ba Tư, thì thấy một con thuyền buôn đang căng buồm đến [[Ấn Độ]], ông công khai than phiền rằng tuổi tác mình giờ đây đã gần đất xa trời, vì thế không thể tiếp bước [[Alexandros Đại đế]] để tiến đánh Ấn Độ được.<ref name="ReferenceB"/>
 
Ông cũng công bố tỉnh [[Assyria thuộc La Mã|Assyria]], có vẻ tỉnh này có gồm thâu cả lãnh thổ Adiabene, và có lẽ vị Hoàng đế cũng đề xướng những chính sách để cai quản nền tài chính của vùng.<ref name="Luttvak, Grand Strategy, 110">Luttvak, Grand Strategy, 110</ref> Nhưng ông không dừng lại ở đó, cuối năm 116, ông đánh chiếm thành phố tráng lệ [[Susa]]. Ông cho đi đày vua Parthia là [[Osroes I]] và đưa người cháu của Osroes I là [[Parthamaspates]] lên làm vua chư hầu xứ Parthia. Theo sử sách, đích thân Hoàng đế Traianus tấn phong Vương miện cho Parthamaspates.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang 241</ref> Đế quốc La Mã sẽ không bao giờ có thể tiến chiếm xa hơn nữa về phía đông kể từ đó. Sau chiến thắng vang dội, ông lui binh về phương Bắc đã giữ vững những tỉnh mà ông mới lấy được ở các vùng Armenia và Lưỡng Hà.<ref name="Bennett, Trajan, 200">Bennett, Trajan, 200</ref>
 
[[Tập tin:Traianus Glyptothek Munich 72.jpg|nhỏ|trái|180px|Tượng bán thân Trajan, [[Glyptothek]], [[München|Munich]].]]
Tới lúc đó, sức khỏe của Hoàng đế Traianus bắt đầu suy sụp. Thành lũy của thành phố [[Hatra]], nằm trên bờ sông [[Tigris]] ở phía sau ông, tiếp tục kháng cự lại các đợt công kích liên tục của quân La Mã. Thành Hatra có vị trí địa lý quan trọng vì thế binh tướng của ông luôn phải cướp phá pháo đài này.<ref name="JulianBennet203">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang 203</ref> Đích thân ông có mặt trong cuộc vây hãm, và có lẽ bị cảm nắng trong cái nắng gay gắt. Giống như [[Marcus Antonius]] khi xưa, ông nhanh chóng tung hoành Á châu nhưng quên củng cố những gì ông chiếm lĩnh được. Lúc đến [[Antioch]], ông hay tin tên phế đế Parthia là Osroes I đang kéo quân về để đoạt lại ngôi báu. Song, dân chúng toàn bộ các tỉnh mà ông chinh phạt đều phất cờ bạo động: người [[Do Thái]] tại Ai Cập, Lưỡng Hà và Cyrene, không những thế, phong trào nổi loạn này còn lan sang [[Libya]], [[Mauretania]] và [[Anh]]. Không những thế, chính do thật quá ư là năng động tại phương Tây cũng như tại phương Đông nóng nực, vị Hoàng đế lâm trọng bệnh và phải rút đại binh về kinh thành La Mã.<ref name="WIllDurant413"/> Traianus chỉ đơn giản coi đó là một bước lùi tạm thời, nhưng số phận quyết định là ông sẽ không bao giờ còn được nắm quyền chỉ huy quân đội nữa. Các quân đoàn phương đông của ông được chuyển cho vị pháp quan cao cấp và là tổng trấn Judaea là [[Brinius Carnix Maximus]] - người đã chỉ huy một tập đoàn quân La Mã đánh tan tác bọn phản loạn và lấy lại được Nisibis và [[Edessa, Lưỡng Hà|Edessa]].<ref name="Bennett, Trajan, 200"/> Đại giáo đường Do Thái tại thành [[Alexandria]] cũng bị Quân đội của Traianus đốt rụi.<ref>[[Nathan Ausubel]], ''Book of Jewish Knowledge'', trang 435</ref> Hoàng đế còn chỉ định Quietus làm quan Tổng tài trong năm sau&nbsp;— khi ông bị tân Hoàng đế Hadrianus hành quyết, vì ông luôn ủng hộ chính sách bành trướng của Traianus.<ref name="JulianBennet203"/> Lại nói, khi hay tin Hoàng đế Traianus chiến thắng trở về Nghị viện La Mã đã chuẩn bị tiến hành lễ khải hoàn lớn nhất trong lịch sử La Mã kể từ thời Hoàng đế [[Augustus]].<ref name="WIllDurant413"/>
 
Dòng 81:
[[Tập tin:Traiani iustitia.jpg|nhỏ|200px|[[Eugène Delacroix]]. ''Công lý của Trajan''.]]
 
Sinh thời, Hoàng đế Traianus được tôn vinh là ''Optimus Princeps'', tức bậc đại minh quân không ai sánh bằng. Sau khi ông về cõi vĩnh hằng, người ta kể rằng không có một vị Hoàng đế nào xuất sắc hơn được ông, hay được lòng dân hơn ông. Ông là vị Hoàng đế có tài dụng binh như thần, không bao giờ ngưng nghỉ chiến đấu và có lòng vô cùng dũng cảm theo lối [[triết học Khắc Kỷ]].<ref>Will Durant, ''The Story of Civilization III: Caesar and Christ'', trang 408</ref> Vào giữa [[Thế kỷ 4|thế kỷ thứ 4]], người ta tôn vinh ông không chỉ là một vị chủ tướng lừng lẫy đưa các binh sĩ tinh nhuệ La Mã đến niềm vinh quang chiến thắng, mà còn là một vị Hoàng đế liêm chính và đức độ có một không hai.<ref name="JulianBennett325">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang 325</ref><ref name="JulianBennettsxvi"/> Khác với nhiều vị đế vương khác đã một thời lừng lẫy trong lịch sử, danh tiếng của Traianus không hề bị suy giảm sau gần 19 thế kỷ. Những công trình đồ sộ mà ông bỏ công gầy dựng sẽ còn làm ấn tượng hậu thế. Việc người La Mã cải đạo Ki-tô giáo càng làm tô điểm thêm huyền thoại về ông: trong thời kỳ [[Trung Cổ]], người ta còn yêu mến ông thậm chí hơn cả thời cổ đại nữa.<ref name="JulianBennettsxvi">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang XVI</ref> Họ thường nói là [[Giáo hoàng Grêgôriô I]], với ơn trên, đã hồi sinh Hoàng đế Traianus và làm lễ rửa tội cho ông với đức tin Ki-tô giáo. Một lời chứng cho việc này được kể lại trong cuốn "Huyền thoại Vàng" (''[[Golden Legend]]'') nổi tiếng. Các nhà thần học, như [[Tommaso d'Aquino|Thomas Aquinas]] (người Anh), ca ngợi Traianus là điển hình của một tín đồ Đa Thần giáo đức độ. Vào [[Thế kỷ 13|thế kỷ thứ 13]], trong bản [[Thần khúc]] trứ danh, đại thi hào [[Ý]] là [[Dante Alighieri]], dựa vào huyền thoại này, cho biết hoàng linh của Traianus ở trên Thiên đường của thần Jupiter, cùng với những nhân vật lịch sử và huyền thoại nổi tiếng vì đức tính chính trực. Sự ra đời của "Thần khúc" đã khiến cho "sự hồi sinh của Traianus" thời Trung Cổ ngày càng trở nên sống động. Một ví dụ điển hình là ông cũng được tả lại trong bài thơ ''[[Piers Plowman]]'' của nhà thi hào [[William Langland]], một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nước Anh thời kỳ Trung Cổ. Sự sáng suốt của ông cũng được thể hiện trong bức tranh bộ đôi sống động được trang trí bằng thảm của người [[Flander]] vào thế kỷ thứ [[Thế kỷ 15|15]], nay hãy còn ở [[Viện Bảo tàng Lịch sử Bern]].<ref name="JulianBennettsxvi"/>
 
Vào [[Thế kỷ 18|thế kỷ thứ 18]], khi đêm trường Trung Cổ đã đi qua từ lâu và nhân dân [[châu Âu]] đang sống trong [[thời kỳ Khai sáng|thời kỳ Khai Sáng]], danh thơm của ông hãy còn tồn vững tồn.<ref name="JulianBennettsxvi"/> Nhà hiền triết Pháp [[Montesquieu]] đã ghi nhận đến ''"sự huy hoàng của Traianus"''.<ref>[[Will Durant]], Ariel Durant, ''The age of Voltaire: a history of civilization in Western Europe from 1715 to 1756, with special emphasis on the conflict between religion and philosophy'', trang 347</ref> Vua nước [[Tây Ban Nha]] là [[Carlos III của Tây Ban Nha|Carlos III]] xuống lệnh do nhà họa sĩ [[Anton Raphael Mengs]] vẽ bức tranh ''Lễ khải hoàn của Traianus'' trên trần [[Hoàng cung Madrid]] – được coi là kiệt tác lớn nhất của nhà họa sĩ. Nhà văn hào [[Pháp]] [[Voltaire]], khi ca ngợi ông [[vua hiền triết]] [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]] nước [[Phổ (quốc gia)|Phổ]]), đã viết rằng ông sáng suốt chẳng kém chi Hoàng đế Traianus.<ref>[[David William Fraser|David Fraser]], ''Frederick the Great: King of Prussia'', trang 63</ref><ref>Nathan Ausubel, ''Superman: the life of Frederick the Great'', trang 346</ref> Vào năm [[1740]], Voltaire cũng tôn vinh vị vua này là ''"có nhân cách của [[Titus]], '''Traianus'''..."''.<ref>[[Theodor Schieder]], ''Frederick the Great'', trang 170</ref> Có kiến trúc sư cung đình cũng tán dương Friedrich II Đại Đế là Traianus, và bản thân ông cũng trích dẫn vị anh hùng Traianus để minh chứng tính "chính nghĩa" của các cuộc chinh phạt của mình.<ref>[[Giles MacDonogh]], ''Frederick The Great'', trang 185</ref><ref>Giles MacDonogh, ''Frederick The Great'', trang 350</ref> Không những liên tục ca ngợi Friedrich II Đại Đế là Traianus trong các thư từ,<ref>[[Robert B. Asprey]], ''Frederick the Great: the magnificent enigma'', trang 116</ref> mà chính Voltaire cũng tán tụng vua Pháp [[Louis XV của Pháp|Louis XV]] là vị Hoàng đế La Mã huy hoàng năm xưa.<ref>David Fraser, ''Frederick the Great: King of Prussia'', trang 141</ref><ref>[[Pierre Gaxotte]], ''Louis XV'', trang 280</ref> Thời đó, người ta cũng ví von vị Hoàng đế [[Đế quốc La Mã Thần thánh|La Mã Thần thánh]] anh minh [[Joseph II của đế quốc La Mã Thần thánh|Joseph II]] với Traianus - một trong những vị Hoàng đế kiệt xuất nhất của La Mã thưở xa xưa mơ hồ.<ref name="ReferenceA"/> Nhà [[lịch sử|sử học]] người Anh là [[Edward Gibbon]] trong cuốn sử La Mã của mình có đưa ra khái niệm "Ngũ hiền đế", trong đó Traianus là vị hiền đế thứ hai.<ref name="JulianBennett325"/> Gibbon kể rằng vị đại anh quân Traianus đã đưa Đế quốc của ông lên đến thời kỳ hoàng kim, và để ca ngợi công đức của ông, hai nhà soạn nhạc nước Ý là [[Giuseppe Nicolini]] và Prunetti đã sáng tác vở [[Opera|nhạc kịch]] ''Trajano in Dacia''.<ref name="JulianBennettsxvi"/> Và ngày nay, Hoàng đế Traianus vẫn hoàn toàn là một minh quân đức độ trong mắt người đời, chiếm vai trò lớn lao trong các vị Hoàng đế La Mã từ cổ chí kim. Và, bên cạnh đó, những công trình xây cất đồ sộ của ông ở kinh thành La Mã vẫn gây cho chúng ta phải ấn tượng, và đường lối xây dựng pháp luật và hành chính của ông vẫn còn có ảnh hưởng đến đời sống.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps : a life and times'', trang 254</ref>
 
== Chú thích ==