Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trương Khiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 24 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q197276 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
[[Tập tin:Statue of Zhang Qian.jpg|nhỏ|Tượng Trương Khiên tại [[Bảo tàng lịch sử Thiểm Tây]], [[Tây An]]]]
'''Trương Khiên''' ({{zh|s=张骞|t=張騫|p=Zhang Qian|w=Chang Ch'ien}}, ?164 TCN – 114 TCN), tự Tử Văn, người Thành Cố, Hán Trung <ref>Nay là [[Thành Cố]], [[Thiểm Tây]]</ref>, nhà lữ hành, nhà ngoại giao, nhà thám hiểm kiệt xuất đời [[Nhà Hán|Tây Hán]] trong [[lịch sử Trung Quốc]], có đóng góp to lớn trong việc mở ra [[Con đường tơ lụa|con đường Tơ Lụa]], kết nối giao thông [[nhà Hán]] với các nước [[Tây Vực]].
 
==Đi sứ Tây Vực lần 1==
Năm Kiến Nguyên đầu tiên (140 TCN) thời [[Hán Vũ Đế|Hán Vũ đế]], Trương Khiên làm Lang. Khi ấy có tù binh Hung Nô khai rằng Vương của nước [[Nguyệt Chi|Đại Nguyệt Chi]] bị [[Hung Nô]] chém đầu, dùng làm đồ đựng rượu. Triều đình tin lời ấy, muốn sai sứ đến Đại Nguyệt Chi đề nghị liên kết chống Hung Nô. Trương Khiên đáp ứng lời kêu gọi, nhận làm sứ giả đi Tây Vực. Năm Kiến Nguyên thứ 2 (139 TCN), ông cùng hơn trăm tình nguyện viên được kẻ nô bộc thuộc thị tộc Đường Ấp, dân tộc Hung Nô là Cam Phụ (còn gọi là Đường Ấp Phụ) dẫn đường, xuất phát từ Lũng Tây <ref>Nay là [[Lâm Thao]], [[Cam Túc]]</ref>. Giữa đường, Trương Khiên bị Hung Nô bắt được, giải đến nơi ở của [[Thiền vu]] <ref>Nay là phụ cận [[Hohhot|Hô Hòa Hạo Đặc]]</ref>, giam lỏng hơn 10 năm, đã lấy vợ sinh con nhưng vẫn không quên thân phận và nhiệm vụ của mình.
 
Trương Khiên nhân lúc người Hung Nô không đề phòng mà trốn đi, theo đường của nước [[Xa Sư]] <ref>Nay là vùng thung lũng [[Turfan|Thổ Lỗ Phiên]], [[Tân Cương]]</ref>, tiến vào nước [[Yên Kỳ (nước)|Yên Kỳ]] <ref>Nay là 1 dải [[Yên Kỳ]], Tân Cương</ref>, lại từ Yên Kỳ vượt [[Sông Tarim|sông Tháp Lý Mộc]], đi qua các nước [[Quy Từ]] <ref>Nay là phía đông [[Kuchar|Khố Xa]], Tân Cương</ref>, [[Sơ Lặc]] <ref>Nay là [[Kashgar|Khách Thập]], Tân Cương</ref>, vượt qua [[Thông Lĩnh]] <ref>Xưa gọi là Thông Lĩnh, nay gọi là cao nguyên [[Dãy núi Pamir|Mạt Mễ Nhĩ]]</ref>, đến được [[Đại Uyên|Đại Uyển]] <ref>Nay là thung lũng [[Fergana|Phí Nhĩ Kiền Nạp]]</ref>, được người Đại Uyển đưa đến [[Khang Cư]] <ref>Nay là khoảng giữa [[Hồ Balkhash|hồ Ba Nhĩ Khách Thập]] và [[Biển Aral|Hàm Hải]], thuộc về nội địa của hai nước [[Uzbekistan]] và [[Tajikistan]]</ref>, cuối cùng đến được [[Nguyệt Chi|Đại Nguyệt Chi]].
 
Nhưng lúc này Đại Nguyệt Chi sau khi dời đến lưu vực [[Amu Darya|sông Quy]], chinh phục được nước láng giềng Đại Hạ <ref>Nay là miền bắc [[Afghanistan|A Phú Hãn]]</ref>, quyết định an cư lạc nghiệp, không muốn báo thù Hung Nô, lại cho rằng nhà Hán ở nơi xa xôi, không giúp ích gì! Trương Khiên ở lại hơn 1 năm, vào năm Nguyên Sóc đầu tiên (128 TCN) đành xin trở về.
 
Nhằm tránh gặp phải người Hung Nô, Trương Khiên đổi sang đường phía nam, vượt qua Thông Lĩnh, men theo phía bắc chân núi [[Côn Lôn]] mà đi, qua các nơi Toa Xa <ref>Nay là [[Yarkand|Toa Xa]], Tân Cương</ref>, Vu Điền <ref>Nay là [[Hòa Điền]], Tân Cương</ref>, Thiện Thiện <ref>Nay là [[Nhược Khương]], Tân Cương</ref>, tiến vào khu vực của người Khương. Nhưng lúc này người Khương đang quy phụ người Hung Nô, nên ông lại bị người Hung Nô bắt được, giam giữ hơn 1 năm. Năm Nguyên Sóc thứ 3 (126 TCN), Hung Nô có nội loạn, Trương Khiên thừa cơ đưa vợ con và trợ thủ Cam Phụ trốn về nhà Hán. Dựa vào báo cáo hết sức chi tiết của ông, Hán Vũ đế nắm được tình hình Tây Vực, rất hài lòng, phong Trương Khiên làm Thái trung đại phu, Cam Phụ làm Phụng sứ quân.
 
==Khai phá tây nam==
Trong thời gian ở Đại Nguyệt Chi, Trương Khiên từng vượt qua bờ nam sông Quy, đến thành Lam Thị <ref>Nay là [http://en.wikipedia.org/wiki/Wazirabad Ngõa Tề Lạp Ba Đức], [[Afghanistan]]</ref>, trông thấy sản vật của đất Thục ([[Tứ Xuyên]]), tìm hiểu thì được biết là do thương nhân của nước [[Quyên Độc]] <ref>Còn gọi là [[Ấn Độ|Thiên Trúc]], tức [[Ấn Độ]]</ref> ở phía nam Đại Hạ mang đến. Từ đây, ông cho rằng nước Quyên Độc không hề cách xa nhà Hán, đến được Quyên Độc thì có thể đến được Đại Uyển, Khang Cư, Nguyệt Chi và An Tức <ref>Chính là [[Iran|Ba Tư]], nay là [[Iran]]</ref>.
 
Sau khi trở về, Trương Khiên kiến nghị sai sứ từ đất Thục đi qua [[Dạ Lang]] <ref>Nay là phía đông huyện [[Đồng Tử]], thành phố [[Tuân Nghĩa]], [[Quý Châu]]</ref> về phía tây nam, tìm đường đến Quyên Độc. Hán Vũ đế muốn mở rộng tầm ảnh hưởng chính trị của mình, nhằm cô lập Hung Nô, nên lập tức đồng ý, phái ông đến quận Kiền Vi <ref>Nay là [[Nghi Tân]], [[Tứ Xuyên]]</ref>, chủ trì việc này.
Dòng 24:
 
==Đi sứ Tây vực lần 2==
Năm Nguyên Thú thứ 4 (119 TCN), Trương Khiên được mệnh làm Trung lang tướng, đi sứ Ô Tôn <ref>Nay là phía nam hồ Ba Nhĩ Khách Thập và lưu vực sông [[Ili|Y Lê]]</ref>, hòng thuyết phục nước này quay về phía đông ở khu vực Hà Tây, cùng nhà Hán hợp kích Hung Nô. Ông đưa theo 300 tùy tùng, hàng vạn bò, cừu, hơn vạn các thứ vật phẩm quý giá bằng tơ lụa, ngọc, đồng,…
 
Lần này không bị Hung Nô ngăn trở, đoàn sứ giả đến Ô Tôn một cách thuận lợi. Tuy được Ô Tôn vương Côn Mạc chào đón và tiếp nhận lễ vật, nhưng người Ô Tôn lấy cớ Hán xa Hung gần, lại không rõ nhà Hán mạnh yếu thế nào, nên từ chối quay về phía đông, khiến cho mục đích đi sứ không thành. Sau đó, Trương Khiên phái các phó sứ cầm cờ tiết đi đến các nước láng giềng của Ô Tôn là Đại Uyển, Khang Cư, Đại Nguyệt Chi, Đại Hạ, An Tức, Quyên Độc, Vu Điền tiến hành hoạt động ngoại giao.
Dòng 31:
 
==Đánh giá==
Trương Khiên 2 lần đi sứ Tây Vực, vượt muôn trùng hiểm nguy, ở lần đầu tiên, hơn trăm người đi chỉ còn 2 người trở về. Dựa vào con đường mà ông tìm ra, chính là “con đương Tơ Lụa” nổi tiếng, các thương nhân Đông – Tây đi lại buôn bán, nên người Trung Quốc mới biết đến [[ngựa Hãn Huyết]], [[Nho|bồ đào]], [[Chi Linh lăng|mục túc]], [[lựu|thạch lựu]], [[hồ đào]], [[Vừng|hồ ma]],... Công lao của ông được [[Sử Ký (định hướng)|Sử ký]] ca ngợi là '''tạc không''' (nghĩa là mở mang đường lối cho thông suốt).
 
Việc làm của Trương Khiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử giao lưu với các dân tộc khác của người Trung Quốc, xé toang truyền thống xã hội “phong bế tự bảo”. Ông gặp nguy khó không đánh mất khí tiết, không rời bỏ nhiệm vụ, được [[Lương Khải Siêu]] ca ngợi “''kiên nhẫn lỗi lạc kì nam tử, thế giới sử khai mạc đệ nhất nhân''”.
 
==Tham khảo==
* [[Sử Ký (định hướng)|Sử ký]]
* [[Hán thư]]