Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Châlons”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 46 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q139808 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 8:
|place= Trong khoảng vùng [[Champagne-Ardenne]], khu vực nằm ở đông bắc nước Pháp ngày nay
|result= [[Thắng lợi quyết định|Chiến thắng quyết định]]<ref name="georgepatrickweel">George Patrick Welch, ''Britannia: the Roman conquest and occupation of Britain'', trang 263</ref> của liên quân [[Đế quốc Tây La Mã|Tây La Mã]] và các vương quốc [[Các dân tộc German|German]]. Nền [[Văn minh La Mã cổ đại|văn minh La Mã]] được bảo tồn<ref name="alanaxelrod54"/>, quân Hung bị đẩy lui khỏi biên giới Tây La Mã.
|combatant1=[[Đế quốc Tây La Mã]] (có nhiều [[người lính]] gốc [[NgườiCác dân tộc German|German]])<ref>[http://books.google.com/books?id=kfv6HKXErqAC&printsec=frontcover&dq=encyclopedia+of+european+people&hl=no&ei=cT0_ToCzG8nGswaJzO3_Aw&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=1&ved=0CCkQ6AEwAA#v=onepage&q=%22by%20the%20late%20fourth%20century%20germanics%20constituted%20most%20of%20the%20roman%20military%22&f=false ''Encyclopedia of European People'']</ref>, <br /> [[Visigoth|Người Visigoth]],<br />[[Người Frank]],<br />[[Người Burgundy]],<br />[[Người Alan]]
|combatant2=[[Đế quốc Hung]],<br />[[Ostrogoth|Người Ostrogoth]],<br />[[Người Gepid]]
|commander1=[[Flavius Aetius]], <br />[[Merovech]],<br />[[Theodoric I|Theodoric]] {{KIA}},<br /> [[Gondioc]],<br /> [[Sangiban]]
|commander2=[[Attila]],<br />[[Valamir]],<br />[[Ardaric]]
Dòng 18:
}}
 
'''Trận Châlons''', hay còn gọi là '''trận đồng bằng Catalaunian''' hoặc '''trận Campus Mauriacus''', diễn ra vào năm 451 giữa một bên là [[người Hung]] cùng các đồng minh do vua [[Attila]] chỉ huy đối đầu với một liên minh do Đại Tướng quân La Mã [[Flavius Aetius]] thống suất, bao gồm [[đế quốc Tây La Mã]], người [[Visigoth]] cùng một số quốc gia khác của [[các dân tộc German|người German]]. Đây là trận đánh lớn cuối cùng của đế quốc Tây La Mã và cũng là trận thắng làm nên đỉnh cao vinh quang cho danh tướng Flavius Aetius - ông đã thể hiện bản lĩnh đẹp đẽ của một bậc đại anh hùng của thời đại trong chiến thắng<ref name="charleskingsley61"/>. Nhiều nhà sử học xem đây là một trong những trận đánh quan trọng nhất trong lịch sử [[châu Âu]],<ref>Herbert Attila book i., line 13</ref><ref name="ReferenceA">Edward Shepherd Creasy, The Fifteen Decisive Battles of the World: from Marathon to Waterloo, chapter 6</ref><ref>Thomas Hodgkin, ''Theodoric the Goth: the barbarian champion of civilization'', trang 25</ref> và ít ra thì chiến thắng này của Aetius đã trở nên một trong những trận chiến tiêu biểu nhất của thời kỳ [[Trung Cổ]].<ref name="wessroerts"/> Ngoài ra, đây cũng là một trong những trận thư hùng mãnh liệt nhất, một trong những [[thắng lợi quyết định]] hơn cả trong [[Lịch sử thế giới|lịch sử nhân loại]].<ref name="henleyjervis">William Henley Jervis, ''The student's France, a history of France from the earliest times to the establishment of the second empire in 1852'',t rang 28</ref><ref name="spencertucker174"/> Trận đánh này được xem là một thất bại về mặt chiến lược của người Hung và đã ngăn trở kế hoạch xâm chiếm Tây Âu của Attila. Vì tính chất vô cùng trọng đại của trận ấy ghi hằn trong sử sách, nó cũng đã chấm dứt huyền thoại về một Attila bất khả chiến bại, khiến cho vua Attila vô cùng tức giận.<ref name="alanaxelrod54">Alan Axelrod, ''Profiles in leadership'', trang 54</ref><ref name="FranzBäuml21">Franz H. Bäuml, Marianna D. Birnbaum, ''Attila: the man and his image'', trang 21</ref><ref name="abc-clio">{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=yW-GfElbafQC&pg=PA105&dq=Catalaunian+Plains+attila+invincible&hl=en&ei=vmIjTtwFiZ6xA8TkxZIO&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=1&ved=0CCkQ6AEwAA#v=onepage&q&f=false|title=Encyclopedia of barbarian Europe: society in transformation|author=Michael Frassetto|year=2003|publisher=105|publisher=ABC-CLIO}}</ref><ref name="georgesblondtr251"/> Đại bại này cũng chính là trận thua đầu tiên và duy nhất trong suốt võ nghiệp của ông.<ref name="laurensbahr203b">Lauren S. Bahr, Bernard Johnston (M.A.), ''Collier's encyclopedia: with bibliography and index'', Tập 3, trang 203</ref> Có nhẽ, chiến thắng quyết định của Aetius trong trận này không những bảo vệ được [[Văn minh La Mã cổ đại|nền văn minh La Mã]],<ref name="alanaxelrod54"/> mà đã giải cứu toàn bộ nền văn minh [[Tây Âu]] thoát khỏi nguy cơ rơi vào ách đô hộ của người [[châu Á]].<ref name="spencertucker174"/> Do đó, thắng lợi này không chỉ đẩy lùi rợ Hung ra khỏi xứ [[Gallia|Gaul]] mà còn trở thành một bước ngoặt của lịch sử thế giới, đại diện cho chiến thắng của [[thế giới]] văn minh trước các rợ tộc.<ref name="christopher76keln"/>
 
Đoàn quân La Mã - German của Aetius đã thẳng tay tàn sát quân Hung.<ref name="georgepatrickweel"/> Trận đánh kịch liệt này chấm dứt khi màn đêm buông xuống, quân ông đã tiêu diệt được hữu quân và buộc trung quân của Attila phải lui về trại.<ref name="creasy15455"/> Attila thất thế lại suýt nữa thì bị tận diệt,<ref name="christopher76keln"/> phải đóng cứ thật chắc trong trại và sau đã ra lệnh thoái binh, để lại chiến thắng vang dội cho Aetius.<ref name="henleyjervis"/> Thấy nơi chiến địa máu chảy thành sông, Attila không còn dám ra quân thêm một lần nữa, rồi bắt đầu tháo chạy.<ref name="alanaxelrod54"/><ref name="christopher76keln"/> Do mục đích [[chính trị]] nên Aetius đã không truy đuổi quân Hung để họ an toàn triệt binh.<ref name="williamw26"/> Dù sao đi chăng nữa, khả năng triệu tập một đội quân đa sắc tộc của ông đã đem lại cho ông chiến thắng quyết định này<ref name="georgepatrickweel"/>. Tuy trận huyết chiến này được coi là một trong những chiến dịch quân sự cuối cùng của [[Đế quốc Tây La Mã]], các chiến binh [[Visigoth]] là đội quân chính yếu của quân Liên minh.<ref>http://books.google.com/books?id=kfv6HKXErqAC&printsec=frontcover&dq=encyclopedia+of+european+people&hl=no&ei=cT0_ToCzG8nGswaJzO3_Aw&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=1&ved=0CCkQ6AEwAA#v=onepage&q=%22The%20visigoths%20formed%20the%20core%20of%20the%20army%22&f=false</ref> Vua Visigoth là [[Theodoric I]] đã hy sinh trong chiến đấu.<ref name="williamw25"/> Trận đánh này hết sức là đẫm máu và tục truyền rằng có khoảng từ 162 nghìn cho tới 30 vạn chiến binh đã hy sinh.<ref name="williamw26">William Weir, ''Fatal Victories: From the Crusades to Bunker Hill to the Vietnam War: History's Most Tragic Military Triumphs and the High Cost of Victory'', trang 26</ref> Nhiều huyền thoại có sức hút lâu dài về trận chiến khốc liệt này, chẳng hạn như chuyện vong hồn các tử sĩ đánh nhau ác liệt trong khói bụi trong một thời gian lâu sau khi Attila thua trận<ref name="charleskingsley61"/>. Flavius Aetius đã làm nên thời khắc huy hoàng của [[Đế quốc La Mã]]. Tuy Đế quốc La Mã chiến thắng không thể mở ra một kỷ nguyên chinh phạt mới hay thịnh vượng, trận thắng này giữ vững đức tin [[Kitô giáo|Ki-tô giáo]] và quyết định dân tộc nào sẽ chia nhau di sản đồ sộ của Đế quốc La Mã.<ref name="alanaxelrod54"/><ref name="creasy15455"/> Với chiến thắng lớn lao này, nhiều người Giéc-man đã có ý thức được rằng họ có thể đánh thắng người Hung ngay cả khi người Hung được các tộc Giéc-man khác hỗ trợ, do đó chiến thắng ác liệt này đã đặt nền tảng cho chiến thắng quyết định của quân Giéc-man trong [[trận Nedao]] một năm sau khi Attila qua đời, dẫn đến sự sụp đổ của Đế quốc Hung.<ref name="williamw26"/> Thành thử, dù chiến thắng lừng lẫy tại Châlons cứu nguy nền [[Văn minh La Mã cổ đại|văn minh La Mã]] trong một thời gian nhưng thắng lợi cũng mở ra thời kỳ oanh liệt của các man tộc Giéc-man tại châu Âu.<ref name="creasy15455">Sir Edward Shepherd Creasy, ''The fifteen decisive battles of the world, from Marathon to Waterloo'', các trang 154-167.</ref> Nhà vua [[Merovech]] của người [[Frank]], vốn dĩ đã cùng san sẻ chiến thắng với Aetius, bắt đầu xưng hùng xưng bá kể từ sau trận đánh.<ref name="spencertucker174"/>
 
== Bối cảnh ==
Dòng 28:
Trong khi Đế quốc Đông La Mã, dù diện tích nhỏ hơn nhưng lại thừa hưởng những vùng đất màu mỡ và đông dân cư (Ai Cập, Tiểu Á, Hy Lạp, v.v...) tiếp tục trụ vững thêm một thời gian dài, Đế quốc Tây La Mã nhanh chóng bộc lộ sự khủng hoảng và suy yếu. Những phần đất nó thừa hưởng tuy rộng lớn nhưng không có những lợi thế như Đông La Mã. Chính sự rộng lớn của Đế quốc Tây La Mã đã dẫn đến sự khó kiểm soát của chính quyền trung ương. Hơn nữa Đế quốc Tây La Mã lại phải hứng chịu hậu quả các đợt di dân của các bộ tộc German vào các thế kỷ 4 và 5. Đã quá suy yếu do các cuộc [[nội chiến]] liên miên, những cuộc khởi nghĩa của [[nô lệ]] và các tầng lớp bị trị, do sự phân liệt cát cứ của các thế lực quý tộc và sự rệu rã của [[quân đội]], đế quốc không còn đủ sức ngăn chặn các làn sóng xâm nhập này nữa. Họ buộc phải cho phép các bộ tộc người German định cư trên các vùng đất của mình và, từ đó, mất luôn những vùng đất này về tay các bộ tộc xâm nhập.
 
Hoàng đế [[Valentinianus III]] lên kế vị [[Honorius (Hoàng đế)|Honorius]], và cũng chỉ là một ông vua bù nhìn như tiên đế<ref name="charleskingsley61"/>. Vào năm 450, Đế quốc Tây La Mã đang trải qua những khoảnh khắc cuối cùng của nó. Các vùng đất của người Tây La Mã ở [[Gallia|Gaul]] cũng như ở ngoài bán đảo [[Ý]] gần như đã mất kiểm soát. Vùng [[Armorica]] hầu như chỉ còn được kiểm soát trên danh nghĩa. Vùng phía bắc Gaul giữa hai con sông [[Rhine]] và [[Marne (tỉnh)|Marne]] đã lọt vào tay người [[Frank]]. Người [[Visigoth]] đã chiếm giữ [[Gallia Aquitania]] và sau đó là bán đảo [[Bán đảo Iberia|Iberia]]. Người [[Bourgogne|Burgundy]] sống gần dãy [[Anpơ|Alps]] mặc dù tỏ vẻ phục tùng nhưng sẽ sẵn sàng nổi loạn bất cứ lúc nào. Tây La Mã lúc này chỉ còn kiểm soát phần đất ven biển Địa Trung Hải kéo dài từ Aurelianum (ngày nay là [[Orléans]]) cho tới thượng lưu sông [[Loire (tỉnh)|Loire]] và hạ lưu sông [[Rhine]].
 
Lúc bấy giờ thì người Hung ở phía đông đã trở thành một mối hiểm họa thực sự cho cả hai Đế chế Tây và Đông La Mã. Dưới sự chỉ huy của vua Attila, người Hung đã nhiều lần vượt [[sông Donau|sông Danube]] cướp phá Đông La Mã, buộc các Hoàng đế ở thành [[Constantinopolis]] phải cống nạp cho họ rất nhiều của cải. Nhà sử học [[Jordanes]] ghi nhận rằng [[Attila]] đã bị vua [[Gaiseric]] của người Vandal xúi giục để phát động chiến tranh với người Visigoth. Đồng thời, Gaiseric sẽ cố gắng để gây xung đột giữa người Visigoth và Đế chế Tây La Mã <ref>(Getica 36,184-6, The ''Getica'' (or "Gothic History"), our principal source for this battle, is the work of [[Jordanes]], who acknowledges that his work is based on [[Cassiodorus]]' own ''Gothic History'', written between 526 and 533. However, the philologist [[Theodor Mommsen]] argued that Jordanes' detailed description of the battle was copied from lost writings of the Greek historian [[Priscus]]. It is available in an English translation by [[Charles Christopher Mierow]], ''The Gothic History of Jordanes'' (Cambridge: Speculum Historiale, 1966, a reprint of the 1915 second edition); all quotations of Jordanes are taken from this edition, which is in the public domain.</ref>.
 
Các tác giả đương thời khác cung cấp những động cơ khác. Honoria, nguyên là một người chị gái rắc rối của Hoàng đế Valentinianus III, lúc đó đang bị giam lỏng và hứa gả cho một thành viên Viện nguyên lão. Năm 450, bà đã gửi một bức thư cho vua Hung yêu cầu sự giúp đỡ của Attila giải thoát cho bà khỏi tình trạng giam cầm. Đáp lại bà sẽ kết hôn với ông và dâng tặng một nửa đế chế như của hồi môn. Attila yêu cầu Honoria sẽ được đưa tới cùng với của hồi môn. Valentinianus III từ chối những yêu cầu này, và Attila sử dụng nó như một cái cớ để đem một lực lượng lớn tiến quân sang phía tây, phát động một chiến dịch tàn phá xứ Gaul.<ref name="abc-clio"/><ref>A modern narrative based these sources can be found in E.A. Thompson, ''The Huns'' (Oxford: Blackwell, 1996), pp. 144–48. This is a posthumous revision by Peter Heather of Thompson's ''A History of Attila and the Huns'', originally published in 1948.</ref> Ban đầu, với tư cách là vị "cứu tinh" của của Công chúa Honoria, Attila phân vân không biết nên tiến đánh kinh thành La Mã hay là Constantinopolis, cũng giống như vua [[Alaric I]] của người Goth trước thời ông. Và cuối cùng, ông đã quyết định tấn công La Mã, nhưng trước đó phải thâu được xứ Gaul.<ref name="charleskingsley61"/>
 
Vua Attila vượt qua [[rhine|sông Rhine]] vào đầu năm 451 với những người lính của ông và một số lượng lớn các đồng minh, cướp phá miền Divodurum ([[Metz]]) vào ngày 7 tháng 4. Việc các thành phố khác bị tấn công có thể được xác định qua các ghi chép được viết để tưởng nhớ các giám mục của họ: Nicasius đã bị giết trước bàn thờ trong nhà thờ của ông tại [[Reims|Rheims]]; Servatus được cho là đã bảo vệ [[Tongeren]] với lời cầu nguyện của mình, cũng như Genevieve được cho là đã bảo vệ [[Paris]].<ref>The ''vitae'' are summarized in {{chú thích | first = Thomas | last = Hodgkin | title = Italy and Her Invaders | place = New York | publisher = Russell & Russell | year = 1967 | origyear = 1880–89 | volume = II | pages = 128ff}}.</ref> Lupus, giám mục của [[Troyes]], cũng được ghi nhận là đã bảo vệ thành phố của mình bằng cách gặp trực tiếp Attila.<ref>{{chú thích | publisher = Catholic.org | url = http://www.catholic.org/saints/saint.php?saint_id=712 | title = Saints}}.</ref> Theo nhà chép sử [[Prosper]] xứ Gaul, sau khi Attila băng qua sông Rhine, nhiều thành phố tại Gaul đã phải hứng chịu sự tàn phá ghê gớm nhất của ông.<ref name="christopher76keln"/>
 
Vào tháng 6, quân đội của Attila tiến tới Aurelianum ([[Orléans]]). Thành phố vững chãi này là cửa ngõ quan trọng để vượt qua sông Loire. Theo sử gia Jordanes, vị vua người Alan là Sangiban đã hứa sẽ mở cổng thành để quy hàng.<ref>Getica 36.194f</ref> Tuy nhiên, dân trong thành Aurelianum đã đóng kín cổng thành trước những kẻ xâm lược. Attila bắt đầu vây hãm thành phố, trong lúc chờ Sangiban thực hiện lời hứa. Cuộc vây hãm cũng được xác nhận bởi những tài liệu của Vita S. Anianus và Gregory thành Tours, mặc dù họ không nhắc đến tên của Sangiban.<ref name="Historia Francorum 2.7">Historia Francorum 2.7</ref>
Dòng 60:
From the Crusades to Bunker Hill to the Vietnam War: History's Most Tragic Military Triumphs and the High Cost of Victory'', trang 25</ref> Thế nhưng, Đại Tướng quân Aetius đã ngăn Thorismund lại. Theo Jordanes, Aetius sợ rằng nếu người Hung bị tiêu diệt hoàn toàn, người Visigoth của Thorismund sẽ phá vỡ liên minh với La Mã và trở thành một đối thủ đáng gờm khác. Ông không muốn Thorismund - vốn là một vị vua giỏi về quân sự, sẽ là một [[Alaric I]] khác đối với Đế quốc Tây La Mã.<ref name="creasy15455"/> Vì vậy nên Aetius đã thuyết phục Thorismund quay trở về quê nhà để bảo vệ ngôi vị khỏi tay những người anh em của ông ta, nếu không thì có thể sẽ xảy ra nội chiến. Thorismund sau đó trở về Tolosa ([[Toulouse]] ngày nay) và lên ngôi mà không gặp khó khăn gì. [[Gregory thành Tours]] cho rằng Aetius cũng dùng mưu kế tương tự để giải tán những đồng minh người Frank, và thu các chiến lợi phẩm từ chiến trường cho riêng mình.<ref name="Historia Francorum 2.7"/>
 
Khi người Visigoth rút lui, lúc đầu Attila nghĩ đó là âm mưu để dụ quân của ông ta ra khỏi trại. Vì vậy ông ta án binh bất động và cố thủ thêm một thời gian nữa. Khi thấy không có tình hình mới nào diễn ra, Attila cho nhổ trại và trở về quê nhà. Những tổn thất quá lớn của cả hai phía khiến Aetius và Attila đều không chắc chắn vào một chiến thắng để tiếp tục trận chiến.<ref>Getica 41.214–17</ref> Theo biên niên sử của [[Hydatius]], Attila ''"nổi cáu lên vì chiến bại khó thể đoán trước được của ông ta tại [[Gallia|Gaul]]"''.<ref name="FranzBäuml21"/>
 
== Lực lượng hai bên ==
Dòng 75:
 
== Tầm quan trọng trong lịch sử ==
Trận đánh Châlons, là chiến thắng của Đại Tướng quân Flavius Aetius, trở thành một trong những trận chiến lớn nhất của thời kỳ [[Trung Cổ]], đã đánh lùi cuộc xâm lược của rợ Hung vào xứ [[Gallia|Gaul]].<ref name="wessroerts"/><ref name="christopher76keln"/> Thắng lợi vang dội ấy là thành quả của công lao xây cất một đội quân đa sắc tộc của ông, họ đã mặc sức tàn sát quân Hung trong trận đánh đẫm máu này.<ref name="georgepatrickweel"/>
 
=== Quan điểm truyền thống: trận Châlons có ý nghĩa lịch sử quan trọng ===
Trận chiến này, đặc biệt là khi được [[Edward Gibbon]] nêu ra trong cuốn [[Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã|The History of the Decline and Fall of the Roman Empire]] và [[Edward Creasy]] đưa vào trong cuốn [[The Fifteen Decisive Battles of the World]], đã được rất nhiều sử gia xem là một trong những trận chiến quan trọng nhất của thời [[Hậu Cổ đại]], ít nhất là với thế giới nói [[latinh|tiếng Latinh]].<ref name="ReferenceA"/>
 
Sử gia John Julius Norwich thì nói rằng mặc dù trận đánh Châlons không có thắng lợi quyết định nghiêng về bên nào, nhưng nó đã cản bước được người Hung. Nếu không có trận đánh này thì có thể thủ lĩnh của họ đã chiếm được kinh đô Ravenna và thành La Mã, và qua đó thì cả xứ Gaul và Ý sẽ bị suy tàn nghiêm trọng về mặt văn hóa (khác với các man tộc khác là người Goth hay Vandal, người Hung của Attila không hề tin vào Thiên chúa hay có chút sự kính trọng nào đối với văn hóa La Mã).<ref>Norwich, Byzantium: the Early Centuries. 1997, p. 158</ref> Arthur Ferrill thì cho rằng trận đánh này có ý nghĩa quan trọng vì nó là trận đánh quan trọng đầu tiên diễn ra giữa hai liên minh lớn chứ không phải chỉ là hai quốc gia.<ref>Ferrill, Arther, Attila the Hun and the Battle of Chalons</ref>
Dòng 94:
Người La Mã nói sau trận chiến: "Cadavera vero innumera," ("Thật sự là vô số xác chết!"). Tục truyền rằng tổng thương vong của hai bên bao gồm từ 162 nghìn cho tới 30 vạn chiến binh, dù con số này hẳn là phóng đại. Song, ít nhất thì nó cũng nêu lên sự hết sức đẫm máu của trận đánh này,<ref name="williamw26"/> dẫu cho người ta cũng xem những con số nhỏ hơn là phóng đại.<ref name="spencertucker174">Spencer Tucker, ''A global chronology of conflict: from the ancient world to the modern Middle East'', Tập 2, trang 174</ref>
 
Theo Gibbon, việc vua Attila rút quân qua bên kia [[rhine|sông Rhine]] đã chứng tỏ chiến thắng lớn lao cuối cùng của Đế chế Tây La Mã.<ref>Edward Gibbon, Decline and Fall of the Roman Empire (New York: Modern Library), volume II, p.1089</ref> Chiến thắng vang dội này cũng làm cho tiếng tăm của Đại tướng quân Flavius Aetius - một danh nhân xuất sắc trong giai đoạn cuối của Đế quốc La Mã - trở nên bất hủ.<ref>Edward Gibbon, J. B. Bury, ''The Decline and Fall of the Roman Empire'', Tập 3, trang 472</ref>
 
Một năm sau, Attila lại đòi Honoria và các vùng của Tây La Mã. Lần này ông nghĩ rằng đánh thẳng vào Ý sẽ hợp lý hơn. Vượt dãy Alps, Attila chinh phục [[Aquileia]], [[Vicetia]], [[Verona]], [[Brixia]], [[Bergomum]], và [[Milano]]. Khi đã đến gần thành La Mã thì ông quay về, nguyên do của việc này có thể là do sự kết hợp giữa dịch bệnh đang hoành hành trong nội bộ quân Hung, cuộc đàm phán sáng suốt của [[Giáo hoàng Lêô I]] và việc quân Đông La Mã tấn công vùng đất của ông ta từ phía sau.<ref name="charleskingsley61"/><ref>Hydatius, Chron Min. ii pp.26ff</ref> Mối nguy hiểm từ người Hung chỉ hoàn toàn kết thúc sau cái chết của Attila vào năm 453. Tuy nhiên, sau chiến bại của Châlons thì sức tàn phá khủng khiếp của Attila vào thế giới văn minh đã giảm hơn hẳn.<ref name="creasy15455"/> Thực chất, trong thời điểm Attila qua đời, người Hung không thể đe dọa nghiêm trọng đến Đế quốc Tây La Mã được nữa.<ref name="christopher76keln">Christopher Kleinhenz, ''Medieval Italy: an encyclopedia'', Tập 1, trang 76</ref> Về phần danh tướng Aetius, Hoàng đế La Mã Valentinianus III giết hại ông vào năm 454 để rồi một năm sau chính hoàng đế bị ám sát chết bởi những người ủng hộ viên tướng này. Hình như Aetius đã bị thất sủng do ông không truy sát quân Hung sau chiến thắng tại trận Châlons<ref name="wessroerts"/>. Người Vandal nhân cơ hội đó để tiến vào [[Cuộc cướp phá thành La Mã (455)|cướp phá thành La Mã]] (năm 455).
Dòng 100:
Mặt khác, với chiến thắng lớn lao tại Chalons thì nhiều người Giéc-man đã ý thức được khả năng đánh bại người Hung của họ, dù trong trận Chalons quân Hung được quân các tộc Giéc-man khác hỗ trợ. Ấy thế là, chỉ một năm sau khi Attila qua đời, các tộc Giéc-man thần phục Attila đã dấy binh đè bẹp Đế quốc Hung trong [[trận Nedao]]. Thế cho nên chiến thắng ở trận Chalons mới tạo tiền đề cho sự sụp đổ của Đế quốc Hung là vậy.<ref name="williamw26"/> Một lý do khiến trận Châlons (và cả chiến dịch) để lại ấn tượng sâu đậm đối với những người đương thời là vì mức độ tàn bạo và sự tàn sát của nó. Hai sử gia sống trong thời đó đã miêu tả về sự thảm khốc của trận chiến như sau. Jordanes viết rằng dòng sông nơi trận chiến xảy ra ngập tràn máu đỏ hòa với nước sông.<ref>Getica 40.208</ref> Damascius thì viết rằng chỉ có chỉ huy của hai bên cùng một vài binh sĩ là trở về an toàn, còn linh hồn của các tử sĩ vẫn tiếp tục hung hãn chiến đấu với nhau suốt nhiều ngày đêm sau đó, như thể họ đang còn sống.<ref>Thompson, The Huns, p.155</ref> Bức tranh tuyệt đẹp "Trận chiến của người Hung" (''Hunnenschlacht'') của nhà [[họa sĩ]] Wilhelm von Kaulbach (người [[Đức]]) đã khắc họa rõ nét cảnh tượng này. Trong đó, cứ mỗi đêm, những chiến binh trận vong của hai phe trỗi dậy từ nấm mồ của họ. Ở nơi chiến địa hoang vu, họ giáp chiến với nhau trong mây mù, trong khi khắp vùng phải ớn lạnh trước những tiếng ghào thét ghê rợn của họ. Đây là một trong những huyền thoại có sức hút lâu dài về trận chiến kinh hoàng này.<ref name="charleskingsley61">Charles Kingsley, ''The Roman and the Teuton'', trang 61</ref><ref>[[Karl Marx]], [[Friedrich Engels]], ''Collected works'', Tập 5, trang 593</ref> Và trận chiến đã trở thành một trong những cuộc giao tranh khốc liệt nhất trong [[Lịch sử thế giới|suốt bề dày lịch sử nhân loại]].<ref name="henleyjervis"/>
 
Ngoài ra, trong võ nghiệp của Attila, trận thua lớn này cũng chính là chiến bại đầu tiên và duy nhất của ông.<ref name="laurensbahr203b"/> Một lý do nữa để trận chiến trở nên nổi tiếng là vì nó là trận chiến lớn đầu tiên kể từ thời Đại Đế [[Constantinus Đại đế|Constantinus I]] diễn ra giữa một lực lượng theo Thiên chúa giáo và một thế lực ngoại đạo. Suy nghĩ này rõ ràng là có hiện hữu ở những người đương thời, khi những người này cho rằng việc cầu nguyện đã đóng góp không nhỏ đến kết cục trận chiến.<ref name="Historia Francorum 2.7"/> Nhưng sử cũ cho thấy sau chiến thắng này, chính các dân rợ German mới trở thành mối hiểm họa chính yếu của Đế quốc Tây La Mã, dẫu họ không đến nỗi quái ác như rợ Hung.<ref name="christopher76keln"/> Sau này, khi quân Đồng minh [[Đế quốc Anh|Anh]] - [[Đệ tam Cộng hòa Pháp|Pháp]] bẻ gãy cuộc tiến công của quân [[Đế chếquốc Đức|Đức]] trong [[trận sông Marne lần thứ nhất]] vào năm [[1914]] trong cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Đại chiến thế giới lần thứ nhất]], có viên tướng Pháp đã nêu ý định đặt tên thắng lợi quyết định ấy là '''trận đồng Catalaunian''', để ghi dấu sự thất trận của một "tân Attila" (ở đây chỉ Quân đội Đức) với [[Đại tướng]] [[Joseph Joffre]].<ref name="georgesblondtr251">Georges Blond, ''The Marne: the battle that saved Paris and changed the course of the First World War'', trang 251</ref>
 
== Chú thích ==