Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tàu tuần dương hạng nhẹ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 22 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q778129 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 3:
 
== Lịch sử ==
Vào cuối [[thế kỷ 19]], tàu tuần dương được phân loại thành hạng nhất, hạng nhì và hạng ba dựa vào khả năng. Tàu tuần dương hạng nhất tiêu biểu thường là [[tàu tuần dương bọc thép]], với [[đai giáp hông]], và chúng thường khó phân biệt với những [[thiết giáp hạm tiền-dreadnought]] cỡ nhỏ. Tàu tuần dương hạng nhì và hạng ba nhẹ hơn, rẻ tiền hơn và nhanh hơn, thường chỉ có sàn tàu bọc thép và các hầm than bảo vệ thay vì lườn tàu bọc thép, và thường được biết đến như là [[tàu tuần dương bảo vệ]]. Những chiếc tàu tuần dương nhỏ vận hành bằng hơi nước đầu tiên được chế tạo cho [[Hải quân Hoàng gia Anh|Hải quân Hoàng gia]] [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] là chiếc [[HMS Mercury (1878)|HMS ''Mercury'']] được hạ thủy vào năm [[1878]].<ref>{{chú thích sách | first = John | last = Beeler | title = Birth of the Battleship: British Capital Ship Design 1870-1881 | publisher = Naval Institute Press | date = 2001 | pages = 40 | url = http://books.google.com/books?id=BxZ61ZF4Ea8C&pg=PA40&lpg=PA40&source=web | isbn = 1557502137}}</ref> Những chiếc tàu tuần dương bảo vệ hạng nhì và hạng ba như vậy dần dần tiến hóa, trở nên nhanh hơn, vũ khí mạnh hơn và được bảo vệ tốt hơn.
 
Đức có ưu thễ dẫn đầu trong thiết kế tàu tuần dương hạng nhẹ trong những năm [[thập niên 1890|1890]], chế tạo một lớp các tàu tuần dương nhanh, được hải quân các nước khác bắt chước. Những chiếc này vận hành bằng nồi hơi đốt than và [[động cơ hơi nước|động cơ hơi nước chuyển động qua lại]], và phụ thuộc một phần vào sự sắp xếp các hầm than như là sự bảo vệ. Việc áp dụng [[nồi hơi ống nước]] đốt dầu và động cơ [[tuốc bin hơi nước|turbine hơi nước]] đã khiến cho những tàu tuần dương cũ này nhanh chóng trở nên lạc hậu. Hơn nữa, hệ thống động lực mới khiến không thể dựa vào việc bảo vệ bằng các hầm than, vốn đã được dầu thay thế, nên phải áp dụng một hình thức bảo vệ hông nào đó. Nhóm ''Bristol'' thuộc [[Town (lớp tàu tuần dương) (1910)|lớp tàu tuần dương ''Town'']] (1909) trở thành thiết kế đột phá từ các kiểu trước đó, với động cơ turbine hơi nước đốt than và dầu hỗn hợp, vỏ giáp bảo vệ hông dày 51&nbsp;mm (2 inch) cũng như là sàn tàu. Do đó, theo định nghĩa, chúng là những tàu tuần dương bọc thép cho dù trọng lượng rẽ nước chỉ có 4.800 tấn; kiểu tàu tuần dương hạng nhẹ đã ra đời. Những tàu tuần dương hạng nhẹ hiện đại đầu tiên thuộc [[Arethusa (lớp tàu tuần dương) (1912)|lớp ''Arethusa'']] (1911) có nồi hơi đốt toàn bộ bằng dầu và sử dụng động cơ nhẹ cân kiểu [[tàu khu trục]] để có thể đạt được tốc độ 53,7&nbsp;km/h (29 knot).
 
== Chiến tranh Thế giới thứ nhất ==
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh Thế giới thứ nhất]], tàu tuần dương hạng nhẹ Anh tiêu biểu thường mang hai khẩu pháo 152&nbsp;mm (6 inch) và có thể đến tám khẩu 100&nbsp;mm (4 inch), hoặc một dàn pháo đồng nhất toàn cỡ pháo 152&nbsp;mm (6 inch) trên tàu có trọng lượng rẽ nước khoảng 5.000 tấn, trong khi tàu tuần dương hạng nhẹ Đức phát triển trong chiến tranh từ cỡ pháo 105&nbsp;mm (4,1 inch) lên mức 150&nbsp;mm (5,9 inch).
 
Sau chiến tranh, thuật ngữ “tàu tuần dương hạng nhẹ” mới được [[Hiệp ước Hải quân London]] năm [[1930]] chính thức đưa ra. Đó là những tàu tuần dương trang bị pháo cỡ nòng 155&nbsp;mm (6,1 inch) hoặc nhỏ hơn, trong khi [[tàu tuần dương hạng nặng]] được định nghĩa trang bị pháo cho đến cỡ 203&nbsp;mm (8 inch). Trong cả hai trường hợp, chúng không thể vượt quá trọng lượng 10.000 tấn.
 
== Chiến tranh Thế giới thứ hai ==
Trong thời kỳ [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]], tàu tuần dương hạng nhẹ được trang bị pháo trong khoảng 127&nbsp;mm (5 inch), như đối với [[Atlanta (lớp tàu tuần dương)|lớp tàu tuần dương phòng không ''Atlanta'']], cho đến 155&nbsp;mm (6,1 inch), mặc dù thông dụng nhất là cỡ 152&nbsp;mm (6 inch). Tàu tuần dương hạng nặng thường trang bị pháo cỡ 203&nbsp;mm (8 inch). Trong những năm ngay trước chiến tranh, do những giới hạn của Hiệp ước Hải quân London khiến không thể tạo ra một thiết kế tàu tuần dương hạng nặng cân bằng bên trong trọng lượng cho phép, một số lượng lớn tàu tuần dương hạng nhẹ đã được chế tạo với trọng lượng 10.000 tấn và có từ 12 đến 15 pháo 152&nbsp;mm (6 inch), hầu như tương tự với tàu tuần dương hạng nặng.
 
Việc chế tạo [[tàu tuần dương hạng nặng]] bị đình chỉ tại Anh, Pháp và Ý vào giữa những năm [[thập niên 1930|1930]]. Tuy nhiên, việcThế Chiến II bùng nổ đã cho phép các quốc gia bỏ qua Hiệp ước London và vượt qua giới hạn 10.000 tấn. Cho đến cuối chiến tranh, những tàu chiến được xếp lớp là “tàu tuần dương lớn” của Hải quân Mỹ có trọng lượng rẽ nước lên đến xấp xỉ 30.000 tấn ([[Alaska (lớp tàu tuần dương)|lớp tàu tuần dương lớn ''Alaska'']]), trong khi tàu tuần dương hạng nhẹ vẫn giữ ở mức 10.000 tấn, mặc dù đôi khi lên đến 12.000 hoặc 13.000 tấn. Đa số các tàu tuần dương tên lửa điều khiển có trọng lượng rẽ nước tương tự: 10.000 tấn cho ''Ticonderoga'', 12.000 tấn cho ''Slava'' và 28.000 tấn cho ''Kirov''.
 
== Tàu tuần dương hạng nhẹ ngày nay ==
Bốn tàu tuần dương hạng nhẹ hiện vẫn còn tồn tại như là tàu bảo tàng, và một chiếc hiện vẫn đang được cho hoạt động thường trực: chiếc [[BAP Almirante Grau (CLM-81)|BAP ''Almirante Grau'']] của [[Hải quân Peru]]. Bốn chiếc được bảo quản như những tàu bảo tàng bao gồm: [[HMS Belfast (C35)|HMS ''Belfast'']] (1938) tại [[Luân Đôn|London]], [[HMS Caroline (1914)|HMS ''Caroline'']] (1914) tại [[Belfast]], [[USS Little Rock (CGCL-492)|USS ''Little Rock'']] tại [[Buffalo, New York]], và chiếc hiện đại hơn [[Colbert (C 611)|''Colbert'']] của Pháp tại [[Bordeaux]]. Những chiếctương tự bao gồm các tàu tuần dương bảo vệ [[Tuần dương hạm Rạng Đông|''Rạng Đông'']] tại [[Sankt-Peterburg|St Petersburg]] và [[USS Olympia (C-6)|USS ''Olympia'']] tại [[Philadelphia|Philadelphia, Pennsylvania]], cũng như phần mũi của chiếc ''Puglia'' tại Ý.
 
== Cách xếp lớp của Hải quân Hoa Kỳ ==