Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Suwannee (CVE-27)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 2 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q6139846 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 4:
{{Infobox ship image
|Ship image= [[Tập tin:USS Suwannee;0302718.jpg|300px]]
|Ship caption= Tàu sân bay hộ tống USS ''Suwannee'' trên đường đi, sau khi sửa chữa những hư hại bởi ''[[thần phong|kamikaze]]'', [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1944]]
}}
{{Infobox ship career
Dòng 36:
|Ship struck= [[1 tháng 3]] năm [[1959]]
|Ship honors= 13 × [[Ngôi sao chiến đấu]]
|Ship fate= Bị bán [[30 tháng 11]] năm [[1959]],<br/>tháo dỡ tại [[Bilbao]], [[Tây Ban Nha]], [[tháng sáu|tháng 6]] năm [[1962]]
|Ship status=
}}
Dòng 55:
|Ship armament=2 × [[hải pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber]] (2×1)<ref>{{harvnb|Friedman|1983|p=407}}</ref> <br/> 8 × pháo phòng không [[Bofors 40 mm]] (4×2) <br/> 12 × pháo phòng không [[Oerlikon 20 mm]] (12×1) <br /> (bổ sung thêm pháo 20 & 40 mm sau đó)
|Ship armor=
|Ship aircraft=30 × [[Grumman F4F Wildcat|F4F Wildcat]], [[Grumman TBF Avenger|TBF Avenger]] hoặc [[Douglas SBD Dauntless|SBD Dauntless]]
|Ship aircraft facilities=2 × thang nâng
|Ship notes=
Dòng 61:
|}
 
'''USS ''Suwannee'' (AVG/ACV/CVE/CVHE-27)''' là một [[tàu sân bay hộ tống]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]]. Nguyên là một [[tàu chở dầu]] trước chiến tranh, nó được Hải quân trưng dụng để phục vụ tại [[Đại Tây Dương]], rồi được cải biến thành một tàu sân bay hộ tống thuộc [[Sangamon (lớp tàu sân bay hộ tống)|lớp ''Sangamon'']]. ''Suwannee'' đã hoạt động tại [[Địa Trung Hải]] và [[Thái Bình Dương]] trong Thế Chiến II. Sau chiến tranh, nó được đưa về lực lượng dự bị, rồi được cho ngừng hoạt động vào năm [[1947]] và bị bán để tháo dỡ vào năm [[1959]].
 
== Chế tạo – Trưng dụng ==
Dòng 71:
==Lịch sử hoạt động==
===1942===
Không đầy một tháng sau, ''Suwannee'' lên đường từ [[Hampton Roads]] tham gia cuộc [[Chiến dịch Torch|Đổ bộ Bắc Phi]]. Nó gia nhập cùng với [[USS Ranger (CV-4)|''Ranger'']] khi chiếc tàu sân bay này được phối thuộc cho nhóm tấn công trung tâm mà mục tiêu chính là [[Casablanca]], ngang qua [[Fedhala]] về phía Bắc. Sáng sớm ngày [[8 tháng 11]], nó đi đến ngoài khơi bờ biển [[Maroc|Morocco]], và trong những ngày sau đó, máy bay tiêm kích [[Grumman F4F Wildcat|F4F Wildcat]] của nó duy trì việc tuần tra chiến đấu trên không và tuần tra [[Chiến tranh chống tàu ngầm|chống tàu ngầm]], trong khi những chiếc [[Grumman TBF Avenger|TBF Avenger]] tham gia cùng lực lượng của ''Ranger'' trong các phi vụ ném bom. Trong trận [[Hải chiến Casablanca]] từ ngày [[8 tháng 11|8]] đến ngày [[11 tháng 11]], ''Suwannee'' đã tung ra tổng cộng 255 phi vụ chiến đấu và chỉ bị mất năm máy bay, ba chiếc trong chiến đấu và hai chiếc do sự cố kỹ thuật.
 
Vào ngày [[11 tháng 11]], ngoài khơi [[Fedhala Roads]], chuyến tuần tra chống tàu ngầm của ''Suwannee'' đã đánh chìm được cái được cho là một [[tàu ngầm]] [[U-boat]] của [[Hải quân Đức|Hải quân]] [[Đức Quốc Xã]], nhưng sau này được xác định là một trong số ba tàu ngầm của [[Hải quân Pháp]] đã rời khỏi Casablanca vào ngày diễn ra cuộc tấn công. Nó trở thành chiếc tàu sân bay hộ tống đầu tiên ghi được chiến công đối với lực lượng dưới nước đối phương, giúp chứng minh sự hữu hiệu của kiểu tàu chiến này trong chiến tranh chống tàu ngầm.
 
''Suwannee'' tiếp tục ở lại vùng biển Bắc Phi cho đến giữa [[tháng mười một|tháng 11]], rồi lên đường đi ngang qua [[Bermuda]] để quay về [[Norfolk, Virginia|Norfolk]]. Nó về đến Hampton Roads vào ngày [[24 tháng 11]] và ở lại đây cho đến ngày [[5 tháng 12]], khi nó lên đường hướng sang [[Nam Thái Bình Dương]].
 
===1943===
Chiếc tàu sân bay phụ trợ vượt qua [[kênh đào Panama]] vào ngày [[11 tháng 12|11]]–[[12 tháng 12]] và đi đến [[Nouvelle-Calédonie|New Caledonia]] vào ngày [[4 tháng 1]] năm [[1943]]. Trong bảy tháng tiếp theo sau, nó hỗ trợ trên không cho các tàu vận tải và tiếp liệu để tăng cường và củng cố vị trí tại [[Guadalcanal]], cũng như cho các lực lượng chiếm đóng các đảo khác thuộc nhóm [[quần đảo Solomon]]. Trong giai đoạn này, nó từng ghé qua Guadalcanal, [[Efate]] và [[Espiritu Santo]] cũng như New Caledonia.
 
Được xếp lại lớp với ký hiệu lườn '''CVE-27''' vào ngày [[15 tháng 7]], ''Suwannee'' quay trở về [[San Diego, California|San Diego]] vào [[tháng mười|tháng 10]], và đến ngày [[5 tháng 11]] đã quay trở lại Espiritu Santo. Vào ngày [[13 tháng 11]], nó lên đường tham gia [[Chiến dịch quần đảo Gilbert]]. Từ ngày [[19 tháng 11|19]] đến ngày [[23 tháng 11]], nó hỗ trợ trên không cho lực lượng tấn công phía Nam, và máy bay của nó đã ném bom [[đảo san hô Tarawa]], trong khi những chiếc thuộc lực lượng tấn công phía Bắc chạm trán với đối phương tại [[Makin (đảo)|đảo Makin]]. Sau chi chiếm được [[quần đảo Gilbert]], chiếc tàu sân bay hộ tống quay trở về Hoa Kỳ ngang qua [[Trân Châu Cảng]], về đến San Diego vào ngày [[21 tháng 12]].
 
===1944===
Nó ở lại khu vực bờ Tây Hoa Kỳ trong hai tuần, rồi khởi hành đi [[Lahaina Roads]] thuộc [[quần đảo Hawaii]]. Nó rời Hawaii ngày [[22 tháng 1]] năm [[1944]] hướng đến [[quần đảo Marshall]]. Trong [[Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall]], ''Suwannee'' tham gia lực lượng tấn công phía Bắc, khi máy bay của nó đã ném bom và bắn phá các đảo [[Roi-Namur|Roi và Namur]] thuộc phần phía Bắc đảo san hô [[Kwajalein]] cũng như tuần tra chống tàu ngầm cho lực lượng đặc nhiệm. Nó tiếp tục ở lại khu vực Kwajalein trong nữa đầu của [[tháng hai|tháng 2]], rồi trải qua chín ngày sau đó hỗ trợ cho khu vực [[Eniwetok]]. Ngày [[24 tháng 2]], nó lên đường hướng sang phía Đông, đến Trân Châu Cảng vào ngày [[2 tháng 3]] và ghé lại đây hai tuần.
 
Đến ngày [[30 tháng 3]], ''Suwannee'' có mặt tại khu vực phụ cận [[quần đảo Palau]] khi [[Đệ Ngũ hạmHạm đội Hoa Kỳ|Đệ Ngũ hạm đội]] tung ra cuộc không kích kéo dài hai ngày xuống đây. Một tuần sau, nó đi vào Espiritu Santo và ở lại đây bốn ngày. Sau những chặng dừng ngắn tại [[vịnh Purvis]] thuộc quần đảo Solomon và [[Seeadler Harbor]], [[đảo Manus (đảo)|Manus]], chiếc tàu sân bay hộ tống hướng đến [[New Guinea]]. Trong hai tuần lễ, nó hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Hollandia khi chuyển máy bay thay thế cho các tàu sân bay hạm đội vốn trực tiếp tham gia vào việc hỗ trợ đổ bộ. Nó quay trở về Manus vào ngày [[5 tháng 5]].
 
Sau hai chuyến đi xuất phát từ Espiritu Santo, một chuyến đến [[Tulagi]] và chuyến kia đến Kwajalein, ''Suwannee'' đi đến ngoài khơi [[Saipan]] vào giữa [[tháng sáu|tháng 6]]. Trong một tháng rưỡi tiếp theo, nó hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng [[quần đảo Mariana]], tham gia các chiến dịch tại Saipan và [[Guam]]. Ngày [[19 tháng 6]], khi [[Trận chiến biển Philippines|Trận chiến biển Philippine]] khai mào, ''Suwannee'' là một trong những tàu chiến đầu tiên gây tổn thất cho đối phương, khi một trong số máy bay tuần tra chiến đấu trên không của nó đã tấn công và đánh chìm [[tàu ngầm]] [[I-184 (tàu ngầm Nhật)|''I-184'']]. Máy bay của ''Suwanee'' không thực sự tham gia vào cuộc đụng độ lớn của không lực hải quân hai bên trong trận này, vì nó ở lại cạnh lực lượng đổ bộ gần Mariana thực hiện các phi vụ chống tàu ngầm và tuần tra chiến đấu trên không.
 
Ngày [[4 tháng 8]], ''Suwannee'' rời khu vực Mariana, đi Eniwetok và Seeadler Harbor, đến nơi vào ngày [[13 tháng 8]]. Gần một tháng sau, [[10 tháng 9]], nó lại ra khơi hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên [[Morotai]] tại [[Đông Ấn Hà Lan|Đông Ấn thuộc Hà Lan]]. Cuộc đổ bộ kết thúc mà không gặp phải sự kháng cự vào ngày [[15 tháng 9]], và nó quay trở về Seeadler Harbor chuẩn bị cho cuộc chiếm đóng [[Philippines]]. Ngày [[12 tháng 10]], ''Suwanee'' khởi hành từ Manus trong thành phần đội tàu sân bay hộ tống dưới quyền [[Chuẩn Đô đốc]] [[Thomas L. Sprague]] để hỗ trợ trên không cho cuộc [[Trận Leyte|đổ bộ lên vịnh Leyte]]. Nó đi đến Philippine nhiều ngày sau đó, và máy bay của nó bắt đầu tấn công các căn cứ của đối phương tại [[Visayans]] cho đến ngày [[25 tháng 10]]. Nó hỗ trợ trên không cho lực lượng tấn công bằng việc tuần tra chống tàu ngầm và tuần tra chiến đấu, cũng như tấn công các công sự Nhật Bản trên bờ.
 
Ngày [[24 tháng 10|24]]–[[25 tháng 10]] năm [[1944]], Hải quân Nhật tung ra một cuộc tấn công bằng hạm tàu nổi tư ba hướng thách thức cuộc đổ bộ lên [[vịnh Leyte]]. Trong khi Lực lượng Cơ động của [[Đô đốc]] [[Jisaburo Ozawa]] từ Nhật Bản tiến về phía Nam thu hút phần lớn [[Đệ Tamtam hạmHạm đội Hoa Kỳ|Đệ Tam hạm đội]] của Đô đốc [[William Halsey]] tiến lên phía Bắc; Lực lượng Tấn công thứ hai của Đô đốc Shima cùng với lực lượng của Đô đốc [[Shoji Nishimura]] tìm cách vượt qua [[eo biển Surigao]] từ phía Nam. Điều này đã thu hút Lực lượng Bắn phá của Đệ Thất hạm đội thuộc quyền Đô đốc [[Jesse B. Oldendorf]], quay xuống phía Nam đối phó với mối đe dọa này trong [[Trận chiến vịnh Leyte#Trận chiến eo biển Surigao (25 tháng 10)|Trận chiến eo biển Surigao]]. Khi các thiết giáp hạm cũ của Oldendorf chiến đấu tại eo biển Surigao và Đệ Tam hạm đội của Halsey hấp tấp đi lên phía Bắc, chỉ còn lại ''Suwannee'' cùng 15 tàu sân bay hộ tống khác và 22 [[tàu khu trục]] và [[tàu khu trục hộ tống]] hoạt động ngoài khơi vịnh Leyte khi Lực lượng Tấn công thứ hai của [[Phó Đô đốc]] [[Takeo Kurita]] lẻn qua [[eo biển San Bernardino]] không được bảo vệ để xâm nhập [[biển Philippines|biển Philippine]].
 
Ngay trước 07 giờ 00 ngày [[25 tháng 10]], một máy bay từ tàu sân bay hộ tống [[USS Kadashan Bay (CVE-76)|''Kadashan Bay'']] báo cáo về sự xuất hiện một lực lượng Nhật Bản bao gồm bốn [[thiết giáp hạm]], tám [[tàu tuần dương]] và 11 tàu khu trục. Lực lượng dưới quyền của Kurita này lập tức bắt đầu tấn công vào "Taffy 3", đội tàu sân bay hộ tống ở phía cực Bắc dưới quyền Chuẩn Đô đốc [[Clifton Sprague]]. ''Suwannee'' ở cách khá xa về phía Nam trong thành phần "Taffy 1" của Chuẩn Đô đốc Thomas Sprague. Vì vậy, nó đã không tham gia trực tiếp vào cuộc đối đầu với hạm tàu nổi đối phương trong [[Trận chiến ngoài khơi Samar]].
[[Tập tin:CVE27 Kamikaze engine parts.jpg|240px|nhỏ|USS ''Suwannee'' đang được khảo sát tại [[Xưởng hải quân Puget Sound]] sau khi bị ''kamikaze'' tấn công ngày 25 tháng 10 năm 1944: Những bộ phận động cơ 14 xy lanh [[Nakajima Sakae]] 21 của chiếc A6M5 Zero được tìm thấy tại điểm đánh trúng.]]
Vấn đề của nó đến từ một hướng khác. Lúc 07 giờ 40 phút, "Taffy 1" bị tràn ngập bởi máy bay đặt căn cứ trên bờ xuất phát từ [[Davao (thành phố)|Davao]], trong một cuộc [[Kamikazethần phong|tấn công tự sát]] có chủ đích đầu tiên trong chiến tranh. Chiếc đầu tiên đâm vào tàu sân bay hộ tống [[USS Santee (CVE-29)|''Santee'']]; và chỉ 30 giây sau, ''Suwannee'' bắn rơi một chiếc kamikaze đang muốn đâm vào [[USS Petrof Bay (CVE-80)|''Petrof Bay'']]. Pháo thủ của nó không lâu sau đó bắn rơi một máy bay đối phương khác, rồi nhắm vào một chiếc thứ ba đang lượn vòng trên mây ở khoảng cách {{convert|8000|ft|m|abbr=on}}. Họ bắn trúng đối phương, nhưng nó lộn vòng, bổ nhào xuống ''Suwannee'' và đâm vào nó ở cách {{convert|40|ft|m|abbr=on}} phía trước thang nâng phía sau, mở ra một lổ hổng {{convert|10|ft|m|abbr=on}} trên sàn đáp. Quả bom nó mang theo phát nổ ở khoảng giữa sàn đáp và sàn chứa máy bay, xé toạc một khoảng {{convert|25|ft|m|abbr=on}} trên sàn chứa máy bay và gây ra một số thương vong.
 
Trong vòng hai giờ, sàn đáp của nó được sửa chữa tạm đủ để cho phép chiếc tàu sân bay hộ tống tái tục các hoạt động không lực. Đội của ''Suwanee'' đã đánh trả thêm hai đợt không kích khác trước 13 giờ 00; rồi di chuyển theo hướng Đông Bắc để gia nhập cùng Taffy 3 và tung ra các cuộc tìm kiếm vô vọng lực lượng của Kurita đang nhanh chóng rút lui. Ngay sau giữa trưa ngày [[26 tháng 10]], một nhóm kamikaze khác đã xông đến Taffy 1. Một chiếc [[Mitsubishi A6M Zero|Zero]] đã bổ nhào xuống sàn đáp của ''Suwanee'', đâm vào một [[máy bay ném ngư lôi]] vốn vừa mới được thu hồi, nổ tung và va vào chín máy bay khác trên sàn đáp. Đám cháy bùng lên trong nhiều giờ, nhưng cuối cùng cũng được kiểm soát. Chiếc tàu sân bay hộ tống đi đến [[Kossol Roads]] thuộc quần đảo Palaus vào ngày [[28 tháng 10]], rồi đi đến Manus để sửa chữa vào ngày [[1 tháng 11]].
 
===1945===
Sau năm ngày tại Seeadler Harbor, ''Suwannee'' lên đường quay trở về bờ Tây Hoa Kỳ để sửa chữa lớn. Nó dừng qua đêm tại Trân Châu Cảng vào ngày [[19 tháng 11|19]]–[[20 tháng 11]] và về đến [[Xưởng hải quân Puget Sound]] vào ngày [[26 tháng 11]]. Việc sửa chữa hoàn tất vào ngày [[31 tháng 1]] năm [[1945]]; và sau khi ghé qua [[Xưởng hải quân Hunter's Point|Hunter's Point]] và [[Căn cứ Không lực Hải quân Alameda|Alameda]], California, nó hướng sang phía Tây quay trở lại khu vực chiến sự. ''Suwannee'' ghé lại Trân Châu Cảng từ ngày [[16 tháng 2|16]] đến ngày [[23 tháng 2]], Tulagi từ ngày [[4 tháng 3|4]] đến ngày [[14 tháng 3]] và [[Ulithi]] từ ngày [[21 tháng 3|21]] đến ngày [[27 tháng 3]], trước khi đi đến ngoài khơi [[Okinawa]] vào ngày [[1 tháng 4]].
 
Vai trò đầu tiên của ''Suwannee'' là hỗ trợ gần mặt đất cho lực lượng tấn công, nhưng vài ngày sau nó được giao nhiệm vụ tấn công thường xuyên các căn cứ kamikaze tại [[Sakishima Gunto]]. Trong phần lớn thời gian của 77 ngày tiếp theo sau hoạt động ngoài biển, máy bay của nó tiếp tục ngăn chặn đối phương sử dụng các sân bay này. Thỉnh thoảng, nó thả neo tại [[Kerama Retto]] để bổ sung vũ khí và tiếp liệu. Ngày [[16 tháng 6]], ''Suwannee'' lên đường đi [[vịnh San Pedro (Philippines)|San Pedro]] thuộc Leyte, và ở lại đây trong một tuần trước khi đi đến [[eo biển Makassar]] tại [[Đông Ấn Hà Lan|Đông Ấn thuộc Hà Lan]] hỗ trợ cho cuộc đổ bộ tại [[Balikpapan]], [[Borneo]]. Chiếc tàu sân bay quay trở lại vịnh San Pedro vào ngày [[6 tháng 7]] và trải qua một tháng tại đây. Ngày [[3 tháng 8]], nó lên đường đi Okinawa, đến [[vịnh Buckner]] ba ngày sau đó.
 
=== Sau chiến tranh ===
Xung đột kết thúc vào ngày [[15 tháng 8]], nhưng ''Suwannee'' tiếp tục ở lại Okinawa cho đến ngày [[2 tháng 9]], rồi lên đường đi trở về Hoa Kỳ. Nó được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương vào cuối tháng đó. Vào ngày Đến ngày [[6 tháng 2]] năm [[1946]], nó được chỉ định nơi neo đậu dài hạ tại [[Xưởng hải quân Boston]]. Đến ngày [[28 tháng 10]], chiếc tàu sân bay được đặt trong tình trạng dự bị cùng Hạm đội 16 tại [[Boston, Massachusetts|Boston]]; và chỉ hơn hai tháng sau, ngày [[8 tháng 1]] năm [[1947]], nó được cho ngừng hoạt động.
 
''Suwannee'' tiếp tục bị bỏ không tại Boston trong 12 năm tiếp theo. Nó được tái xếp lớp như một tàu sân bay trực thăng hộ tống với ký hiệu lườn '''CVHE-27''' vào ngày [[12 tháng 6]] năm [[1955]]. Tên của nó được rút khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] vào ngày [[1 tháng 3]] năm [[1959]]; và nó được bán cho hãng [[Isbrantsen Steamship Company]] tại [[thành phố New York]] vào ngày [[30 tháng 11]] năm [[1959]] để cải biến cho hoạt động thương mại dân sự. Dự án sau đó bị hủy bỏ, và vào [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1961]], lườn tàu được bán cho hãng [[J.C. Berkwit Company]] tại New York. Nó cuối cùng được tháo dỡ tại [[Bilbao]], [[Tây Ban Nha]], vào [[tháng sáu|tháng 6]] năm [[1962]].
 
== Phần thưởng ==
''Suwannee'' được tặng thưởng 13 [[Ngôi sao Chiến đấu]] do thành tích hoạt động trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]].
 
== Chú thích ==