Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Tennessee (BB-43)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 13 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q1469689 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 36:
}}
{{Infobox ship characteristics
|Ship class=[[Tennessee (lớp thiết giáp hạm)|Lớp thiết giáp hạm Tennessee]]
|Ship displacement= 33.190 tấn (ban đầu); <br/>40.950 tấn (sau khi tái cấu trúc)
|Ship length=190 m (624 ft)
Dòng 57:
|}
 
'''USS ''Tennessee'' (BB-43)''' là một [[thiết giáp hạm]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], là chiếc dẫn đầu trong [[Tennessee (lớp thiết giáp hạm)|lớp tàu]] của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh [[Tennessee|tiểu bang thứ 16]].<ref>[http://www.history.navy.mil/photos/sh-usn/usnsh-t/bb43.htm ''USS Tennessee (BB-43), 1920-1959'', DEPARTMENT OF THE NAVY &ndash; NAVAL HISTORICAL CENTER.]</ref> Nó từng bị hư hại trong vụ [[trận Trân Châu Cảng|tấn công Trân Châu Cảng]] ngày [[7 tháng 12]] năm [[1941]], nhưng được sửa chữa và tiếp tục hoạt động tại [[chiến tranh Thái Bình Dương|mặt trận Thái Bình Dương]] cho đến hết [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]]. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày [[14 tháng 2]] năm [[1947]], bị xóa [[Danh sách đăng bạ hải quân|đăng bạ]] vào ngày [[1 tháng 3]] năm [[1959]], và bị bán để tháo dỡ vào ngày [[10 tháng 7]] năm [[1959]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
=== Thiết kế ===
''Tennessee'' cùng với chiếc tàu chị em với nó [[USS California (BB-44)|''California'']] (BB-44) là những thiết giáp hạm Mỹ đầu tiên có sườn tàu được thiết kế theo kiểu "hậu-[[trận Jutland|Jutland]]". Nhờ kết quả của việc nghiên cứu và thử nghiệm một cách rộng rãi, việc bảo vệ sườn tàu bên dưới mực ngấn nước được cải tiến đáng kể so với các lớp thiết giáp hạm trước đó; và cả dàn pháo chính lẫn pháo hạng hai đều được trang bị [[hệ thống kiểm soát hỏa lực]]. [[Tennessee (lớp thiết giáp hạm)|Lớp thiết giáp hạm ''Tennessee'']] và ba chiếc thuộc [[Colorado (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Colorado'']] tiếp theo sau có thể dễ dàng nhận biết bởi hai cột buồm lớn chống đỡ hệ thống kiểm soát hỏa lực lớn bên trên. Đặc tính này giúp phân biệt năm chiếc thiết giáp hạm nhóm "Big Five" so với những chiếc còn lại cho đến tận [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]]. Vì các tháp pháo chính [[pháo 356 mm (14 inch)|356 mm (14 inch)]] của ''Tennessee'' có thể nâng lên cho đến 30<sup>o</sup> thay vì chỉ 15<sup>o</sup> trên những thiết giáp hạm trước đó, tầm bắn của những khẩu pháo này được tăng thêm 9.100 m (10.000 yard). Thêm vào đó, các thiết giáp hạm bắt đầu chở theo [[thủy phi cơ]] để hiệu chỉnh bắn pháo ở tầm xa, khả năng của ''Tennessee'' có thể bắn "bên kia đường chân trời" có một giá trị thực tiễn.
 
=== Chế tạo ===
Dòng 68:
== Lịch sử hoạt động ==
=== 1920–1941 ===
Sau khi được trang bị, ''Tennessee'' thực hiện các chuyến chạy thử máy tại [[Long Island]] từ ngày [[15 tháng 10|15]] đến ngày [[23 tháng 10]] năm [[1920]]. Trong khi ''Tennessee'' còn ở tại [[Thành phố New York|New York]], một trong những máy phát điện dịch vụ 300 Kw của nó bị nổ vào ngày [[30 tháng 10]], phá hủy toàn bộ phần đuôi turbine của máy tàu và làm bị thương hai người. Các cuộc sửa chữa cần thiết được thực hiện, cho phép chiếc thiết giáp hạm rời New York ngày [[26 tháng 2]] năm [[1921]] thực hiện các cuộc chạy thử tại [[Căn cứ hải quân vịnh Guantánamo|vịnh Guantánamo]]. Sau đó nó di chuyển lên phía Bắc hướng đến [[Virginia Capes]] và đến [[Hampton Roads]] ngày [[19 tháng 3]]. ''Tennessee'' thực hiện các cuộc bắn pháo thử nghiệm để hiệu chỉnh tại [[Dahlgren, Virginia]] rồi vào ụ tàu ở [[Xưởng hải quân Boston|Boston]] trước khi bước vào đợt chạy thử hết tốc độ ngoài khơi [[Rockland, Maine]]. Hai trong số 14 khẩu [[pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber]] được tháo bỏ.<ref name="breyer226">Breyer 1973 p. 226</ref> Sau khi ghé qua [[Thành phố New York|New York]], nó hướng về phía Nam, đi qua [[kênh đào Panama]], và vào ngày [[17 tháng 6]], đến [[San Pedro, California]], cảng nhà mới của nó, nơi nó sẽ phục vụ trong 19 năm sau đó.
 
Tại đây, nó gia nhập Lực lượng Thiết giáp hạm thuộc [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Thái Bình Dương]]. Đến năm [[1922]], Hạm đội Thái Bình Dương được đổi tên thành [[Hạm đội Thiết giáp hạm]] (đổi tên thành Lực lượng Thiết giáp hạm vào năm [[1931]]) thuộc [[Hạm đội Hoa Kỳ]]. Trong hai thập niên tiếp theo, đội thiết giáp hạm của Hạm đội là hạt nhân thống lĩnh lực lượng tàu nổi của Hải quân, và ''Tennessee'' phục vụ tại đây cho đến khi Thế Chiến II bùng nổ.
 
Các hoạt động theo chu kỳ hàng năm trong thời bình cùng với đội thiết giáp hạm bao gồm việc huấn luyện, bảo trì và tập trận sẵn sàng chiến đấu. Nó tham gia tranh đua thực hành tác xạ pháo và thực hành kỹ thuật, cũng như tham gia tập trận “vấn đề hạm đội”, cuộc tập trận quy mô lớn trong đó hầu hết hoặc tất cả các tàu chiến Hạm đội Mỹ được chia ra các phe đối địch và được đề ra một loạt các tình huống chiến lược và chiến thuật để giải quyết. Bắt đầu với [[Vấn đề Hạm đội I]] vào năm [[1923]] và được tiếp tục cho đến [[Vấn đề Hạm đội XXI]] vào [[tháng tư|tháng 4]] năm [[1940]], ''Tennessee'' có một vai trò nổi bật trong các cuộc tập trận này.
 
Trong năm [[1925]], nó tham gia cuộc tập trận cơ động phối hợp [[Lục quân Hoa Kỳ|Lục quân]]-Hải quân nhằm thử nghiệm việc phòng thủ [[quần đảo Hawaii]] trước khi thăm viếng hữu nghị [[Úc|Australia]] và [[New Zealand]]. Các đợt thực hành chiến thuật và vấn đề hạm đội tiếp theo sau đưa ''Tennessee'' từ Hawaii đến [[Vùng Caribe|Caribbe]] và [[Đại Tây Dương]], và từ vùng biển [[Alaska]] đến [[Panama]]. Các khẩu [[pháo phòng không]] 76&nbsp;mm (3 inch) nguyên thủy được thay thế bằng tám khẩu [[pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber]] trong những năm [[1929]]– [[1930]].<ref name="breyer226"/>
 
Vấn đề Hạm đội XXI được tiến hành tại vùng biển Hawaii trong mùa Xuân năm [[1940]]. Cuối đợt tập trận, lực lượng thiết giáp hạm không quay trở về San Pedro; nhưng theo chỉ thị của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt|Roosevelt]], căn cứ hoạt động của chúng được chuyển đến [[Trân Châu Cảng]] với hy vọng hành động này có thể ngăn cản sự bành trướng của [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] tại Viễn Đông. Sau một đợt đại tu tại [[Xưởng hải quân Puget Sound]] sau khi kết thúc Vấn đề Hạm đội XXI, ''Tennessee'' đi đến căn cứ mới của nó vào ngày [[12 tháng 8]] năm [[1940]]. Do tình hình thế giới ngày càng trở nên tồi tệ, cuộc tập trận [[Vấn đề Hạm đội XXII]] dự định tiến hành vào mủa Xuân năm [[1941]] bị hủy bỏ. Vì thế, hoạt động của ''Tennessee'' trong những tháng hòa bình cuối cùng chỉ là những hoạt động ở quy mô nhỏ.
Dòng 85:
Trong quá trình [[trận Trân Châu Cảng|trận tấn công Trân Châu Cảng]], ''Tennessee'' đã xoay sở đưa vào hoạt động các khẩu pháo phòng không và tìm cách bảo vệ cảng trong phạm vi có thể. ''Tennessee'' bị đánh trúng hai quả bom xuyên thép nổ ở tầm sâu.<ref name="wallin">Wallin, Homer N., VADM USN ''PEARL HARBOR: Why, How, Fleet Salvage and Final Appraisal'' United States Government Printing Office (1968) pp.193-4</ref> Quả đầu tiên đánh trúng khẩu pháo giữa của tháp súng số 2 khiến cả ba khẩu pháo đều không thể hoạt động.<ref name="wallin"/> Quả thứ hai xuyên qua nóc tháp súng số 3 và làm hư hại khẩu súng bên trái.<ref name="wallin"/> ''Tennessee'' chịu một cơn mưa mảnh đạn khi hầm đạn của chiếc [[USS Arizona (BB-39)|''Arizona'']] nổ tung và phần đuôi tàu bị chìm ngập trong biển lửa do dầu máy bị tràn ra từ chiếc ''Arizona''.<ref name="wallin"/> Sau khi được sửa chữa sơ bộ tại Trân Châu Cảng, ''Tennessee'' quay về [[Xưởng hải quân Puget Sound]] để được sửa chữa triệt để.
 
Ngoài việc sửa chữa các hư hỏng, chiếc thiết giáp hạm còn được nâng cấp hỏa lực pháp phòng không và trang bị các [[ra đa|radar]] tìm kiếm và kiểm soát hỏa lực; cũng như các cải biến khác để nâng cao khả năng sống sót của con tàu.
 
Vào ngày [[26 tháng 2]] năm [[1942]], ''Tennessee'' rời [[Puget Sound]] sau khi hoàn tất việc sửa chữa. Sau khi về đến [[San Francisco]], [[California]], nó bắt đầu một giai đoạn thực hành huấn luyện khẩn trương cùng Lực lượng Đặc nhiệm 1 dưới quyền chỉ huy của [[Chuẩn Đô đốc]] [[William S. Pye]], bao gồm những chiếc thiết giáp hạm đang sẵn có của Hạm đội Thái Bình Dương và các [[tàu khu trục]] hộ tống.
Dòng 107:
Ngày [[23 tháng 2]] năm [[1944]], ''Tennessee'' khởi hành đi Majuro. Tại đây, nó sáp nhập với các thiết giáp hạm [[USS New Mexico (BB-40)|''New Mexico'' (BB-40)]], [[USS Mississippi (BB-41)|''Mississippi'' (BB-41)]], và [[USS Idaho (BB-42)|''Idaho'' (BB-42)]] dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Robert M. Griffin. Những chiếc tàu chiến rời Majuro ngày [[15 tháng 3]] cùng hai tàu sân bay hộ tống và 15 khu trục.
 
Mục tiêu của chúng là các căn cứ không quân và hải quân tại [[Kavieng]] ở mỏm cực Bắc của đảo [[New Ireland (đảo)|New Ireland]]. [[Quần đảo Bismarck]], với hai đảo lớn [[New Britain]] và New Ireland, nằm về phía Đông [[New Guinea]]. [[Rabaul]], giờ đây trở thành căn cứ chủ lực của Nhật Bản của vòng đai phòng thủ phía ngoài, ở rìa phía Đông của New Britain, ở đối diện New Ireland phía bên kia một eo biển hẹp. Khoảng 386&nbsp;km (240 dặm) về phía Tây Bắc Rabaul, phía bên kia [[biển Bismarck]], là nhóm quần đảo nhỏ [[Admiralty (quân đảo)|Admiralty]].
 
Một lần nữa các khẩu pháo lớn của ''Tennessee'' lại dội lửa lên các vị trí của quân Nhật, phá hủy các khẩu đội pháo duyên hải và hỗ trợ cho lực lượng trên bộ đánh bại đối phương cũng như dội pháo xuống sân bay Nhật Bản và các mục tiêu khác.
 
[[Chiến dịch Forager]], đòn tấn công lên [[quần đảo Mariana]], được vạch kế hoạch gồm hai mũi gọng kìm. Lực lượng Đặc nhiệm 51 của Phó Đô đốc Richmond K. Turner được tổ chức lại thành một lực lượng tấn công phía Bắc (Lực lượng Đặc nhiệm 52) do ông đích thân chỉ huy, và một lực lượng tấn công phía Nam (Lực lượng Đặc nhiệm 53) dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Richard Conolly. Lực lượng tấn công phía Bắc được tập trung tại [[Hawaii]] vào giữa [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1944]]. Sau các đợt tổng dợt ngoài khơi [[Maui]] và [[Kahoolawe]], nhóm hỗ trợ hỏa lực thứ nhất khởi hành đi [[Kwajalein]] trong khi lực lượng tàu vận tải đổ bộ tập trung tại [[Eniwetok]]. Ngày [[10 tháng 6]] năm [[1944]], ''Tennessee'' cùng đội đặc nhiệm của nó rời Kwajalein hướng đến [[Saipan]].
Tại Saipan, ngoài vai trò bảo vệ hạm đội, ''Tennessee'' còn bắt đầu bắn phá một cách hệ thống khu vực đổ bộ được lựa chọn ở phần phía Nam bờ biển phía Tây Saipan để hỗ trợ cho các [[tàu quét mìn]] thực hiện việc rà phá mìn tại đó. Các đội công binh phá mìn (UDT: Underwater Demolition Team) tiếp cận bãi đổ bộ trên những con tàu nhỏ để do thám các bãi đổ bộ và lắp đặt các cột mốc radar làm các tiêu điểm cho cuộc đổ bộ ngày hôm sau. ''Tennessee'' đã tiến sát đến Agingan Point ở khoảng cách 2.700 m (3.000 yard) và khai hỏa các cỡ pháo 355&nbsp;mm (14 inch), 127&nbsp;mm (5 inch) và 40&nbsp;mm.
 
Lực lượng Nhật Bản bắt đầu nã đạn [[súng cối (vũ khí)|cối]] và súng máy vào các đội công binh, trong khi đạn pháo bắt đầu nổ quanh các con tàu yểm trợ từ các khẩu đội pháo ở Tinian gần đó. Tàu tuần dương [[USS Cleveland (CL-55)|''Cleveland'' (CL-55)]] được an toàn, trong khi ''California'' và tàu khu trục [[USS Braine (DD-630)|''Braine'' (DD-630)]] trúng đạn. ''Tennessee'' khai hỏa phản pháo vào lực lượng phòng thủ đang đối đầu với những đội công binh, và các khẩu pháo chính của nó nhắm vào Tinian. Ngay sau giữa trưa, nó di chuyển về phía Tây Bắc để nả pháo các vị trí kiên cố Nhật Bản tại Afetna Point, gần trung tâm khu vực đổ bộ.
 
Vị trí chiến đấu của ''Tennessee'' ở phần cực Nam của bãi đổ bộ, và trong đợt tấn công đổ bộ đầu tiên, pháo của nó liên tục nhắm vào vị trí này dọn đường cho cánh phải của Sư đoàn 4 [[Thủy quân Lụclục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] chiến đấu mở đường lên bờ. Các khẩu pháo 120&nbsp;mm (4,7 inch) Nhật Bản bố trí trong các hang động tại Tinian bắn trả nhắm vào ''Tennessee''. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành phản pháo, nhưng loạt đạn thứ ba của đối phương đã bắn trúng ba phát. Một quả phá tung một tháp pháo 127&nbsp;mm (5 inch) nòng đôi, làm bùng phát một đám cháy nhưng được dập tắt chỉ trong vòng hai phút bởi đội kiểm soát hư hỏng và người của các khẩu đội lân cận. Quả thứ hai trúng vào mạn tàu, gây hư hại cho tấm thép ốp ngoài, nhưng sự hư hại được ngăn ngừa nhờ đai giáp bảo vệ chính. Quả thứ ba xé toang một lổ hổng tại phần sau của sàn tàu chính, tung ra một cơn mưa mảnh đạn xuống hầm tàu bên dưới. Tám người tử trận do các mảnh đạn, và 26 người khác bị thương do mảnh đạn và bỏng. Tuy nhiên, những hư hại trên không thể ngăn cản ''Tennessee'' tiếp tục thực hiện nả pháo theo yêu cầu nhằm giúp phá vỡ cuộc phản công của quân Nhật gần Agingan Point trước khi chiếc thiết giáp hạm rời vị trí chiến đấu để sửa chữa khẩn cấp các hỏng hóc. Vào buổi chiều và tối hôm đó, nó chiếm lấy vị trí hỗ trợ cho các tàu vận chuyển. Bốn [[máy bay ném bom bổ nhào]] Nhật tấn công các tàu bè lân cận vào lúc 18 giờ 46 phút, và các khẩu đội pháo 127&nbsp;mm (5 inch) của ''Tennessee'' đã nổ súng nhưng không bắn trúng chiếc nào. Đêm hôm đó, đài phát thanh Tokyo thông báo thắng lợi của họ tại Saipan, cho rằng họ đã đánh chìm được một thiết giáp hạm được nhận diện "có thể là ''New Jersey''".
 
Chiếc ''Tennessee'' “bị đánh chìm” quay về eo biển Saipan ngày hôm sau. Nhiều cuộc phản công của quân Nhật bị đánh chặn trong đêm đó, và hỏa lực yểm trợ của ''Tennessee'' đã giúp lực lượng Thủy quân Lục chiến tổ chức lại và củng cố bãi đổ bộ của họ. Đêm [[22 tháng 6]], ''Tennessee'' khởi hành đi Eniwetok, nơi chiếc [[USS Hector (AR-7)|''Hector'' (AR-7)]] thực hiện sửa chữa các hư hại trong chiến đấu của nó trong khi cuộc chiến tại Saipan đi đến hồi kết thúc vào ngày [[9 tháng 7]]. Điểm đến kế tiếp của nó là [[Guam]].
 
Ngày [[20 tháng 7]], chiếc thiết giáp hạm tham gia một đợt bắn phá mang tính hệ thống vốn đã được bắt đầu vào ngày [[8 tháng 7]], được vạch kế hoạch cẩn thận nhằm vô hiệu hóa sức kháng cự của đối phương trong khi cố gắng giữ an toàn cho dân cư tại [[Chamorros]] trên hòn đảo. Một lần nữa ''Tennessee'' hỗ trợ hỏa lực ban ngày và bắn pháo sáng ban đêm yểm trợ cho lực lượng đổ bộ lên đảo. [[Quần đảo Palau]] là mục tiêu tiếp theo sau của ''Tennessee''. Đây không phải là một đảo san hô mà là một cụm kéo dài các đảo phía Bắc [[xích đạo|đường xích đạo]] ở về phía cực Tây của [[quần đảo Caroline]]. [[Trận Peleliu]] là một trong những trận đánh quyết liệt nhất tại Mặt trận Thái Bình Dương, và sự kháng cự có tổ chức của đối phương chỉ có thể dập tắt vào tận [[tháng mười một|tháng 11]] với tổn thất lớn về nhân mạng. Mục tiêu của ''Tennessee'' là hòn đảo [[Angaur]] nhỏ hơn cách Peleliu vài dặm về phía Nam. Sáng ngày [[12 tháng 9]], ''Tennessee'' và ''Pennsylvania'' cùng bốn tàu tuần dương hạng nhẹ và năm tàu khu trục bắt đầu một cuộc bắn phá kéo dài trong khi các tàu sân bay cùng thực hiện vai trò của mình.
 
Chiếc thiết giáp hạm nhận được lệnh triệt phá một ngọn hải đăng bằng đá nổi bật trên bờ biển phía Tây của đảo Angaur để quân Nhật không thể sử dụng nó trong việc trinh sát pháo binh. Mười hai phát đạn 356&nbsp;mm (14 inch) đã được ngắm vào nó, xới tung cả khu vực chung quanh, và ba phát đã trúng đích nhưng không thể đánh sập ngôi tháp. Công việc bắn phá các mục tiêu khác đã khiến ''Tennessee'' bận rộn suốt ba ngày tiếp theo sau. ''Tennessee'' sẵn sàng ngoài khơi Peleliu vào buổi sáng ngày [[15 tháng 9]] phòng ngừa trường hợp hỏa lực pháo của nó cần thiết để hỗ trợ cho lực lượng tấn công đổ bộ. Khi công việc này hoàn tất, nó quay trở lại vào chiều tối ngày [[16 tháng 9]] để thanh toán nốt ngọn hải đăng ngoan cố trước khi diễn ra cuộc đổ bộ vào buổi sáng ngày hôm sau.
Dòng 133:
Chiều tối ngày [[21 tháng 10]], trong khi đang nằm im trên biển dưới sự che phủ của một màn khói ngụy trang nhằm che chở khỏi bị máy bay tấn công, ''Tennessee'' bị chiếc tàu vận tải [[USS War Hawk (AP 168)|''USS War Hawk'' (AP-168)]] đâm trúng gần phía đuôi tàu. Không có thương vong, và cấu trúc chắc chắn của thân tàu giúp cho nó ít bị thiệt hại, nhưng mệnh lệnh đưa ra cho một nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực ban đêm bị hủy bỏ.
 
Trong khi ''Tennessee'' hoạt động ngoài khơi [[leyte (đảo)|đảo Leyte]], Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản nhận ra quy mô của cuộc tấn công đang được tiến hành và đã quyết định chọn hòn đảo này làm nơi diễn ra trận hải chiến phản công quyết định: [[trận chiến vịnh Leyte]]. Kế hoạch của Nhật, dựa trên sự phối hợp về địa hình, tiếp liệu và sự thiếu sót một lực lượng tàu sân bay thích đáng, tung ra bốn mũi tấn công gọng kìm nhắm vào khu vực [[vịnh Leyte]] trong một nỗ lực nhằm tiêu diệt bằng mọi giá lực lượng đổ bộ Mỹ.
 
Một lực lượng tương đối yếu dưới quyền chỉ huy của [[Phó Đô đốc]] [[Shoji Nishimura]], hướng đến phía Nam đảo Palawan và vượt qua biển Sulu để đi ngang giữa [[Mindanao]] và Leyte. Lực lượng của Nishimura sẽ vấp phải một lực lượng hỗn hợp các tàu chiến Mỹ, trong đó có ''Tennessee'', trong [[trận chiến vịnh Leyte#Trận chiến eo biển Surigao (25 tháng 10)|trận chiến eo biển Surigao]].
 
Khi chúng đi ngang mũi đảo Panaon vào lúc chiều tối ngày [[24 tháng 10]] và rạng sáng ngày [[25 tháng 10]], lực lượng Nhật Bản lọt vào một cái bẫy chết người do lực lượng của Đệ Thất hạm đội giăng ra. Chuẩn Đô đốc [[Jesse Oldendorf]] có trong tay sáu thiết giáp hạm: [[USS Mississippi (BB-41)|''Mississippi'']], [[USS Maryland (BB-46)|''Maryland'']], [[USS West Virginia (BB-48)|''West Virginia'']], ''Tennessee'', [[USS California (BB-44)|''California'']] và [[USS Pennsylvania (BB-38)|''Pennsylvania'']], tất cả ngoại trừ Mississippi đều là những cựu binh từng bị hư hại tại Trân Châu Cảng; bốn [[tàu tuần dương]] hạng nặng :[[USS Louisville (CA-28)|USS ''Louisville'']] ([[soái hạm]]), [[USS Portland (CA-33)|''Portland'']], [[USS Minneapolis (CA-36)|''Minneapolis'']] và [[HMS Shropshire (83)|HMAS ''Shropshire'']]; bốn tàu tuần dương hạng nhẹ: [[USS Denver (CL-58)|USS ''Denver'']], [[USS Columbia (CL-56)|''Columbia'']], [[USS Phoenix (CL-46)|''Phoenix'']] và [[USS Boise (CL-47)|''Boise'']]; 28 [[tàu khu trục]] và 39 [[PT boat|tàu tuần tra-ngư lôi PT]].
Dòng 141:
Bên trên chiếc ''Tennessee'', các quan sát viên có thể thấy được ánh lửa từ phía xa của các quả đạn pháo khi các tàu tuần tra-ngư lôi và tàu khu trục đụng độ cùng lực lượng Nhật Bản, và không lâu sau đã có thể nghe thấy tiếng nổ. Lúc 03 giờ 02 phút, radar của chiếc thiết giáp hạm bắt được tín hiệu của lực lượng Nishimura đang tiến đến gần ở khoảng cách 40.000 m (44.000 yard) và bắt đầu theo dõi chiếc dẫn đầu. Đó chính là soái hạm của hạm đội Nhật, thiết giáp hạm [[Yamashiro (thiết giáp hạm Nhật)|''Yamashiro'']]. Cùng với tàu tuần dương [[Mogami (tàu tuần dương Nhật)|''Mogami'']] và tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|''Shigure'']], đó là tất cả những gì còn lại của lực lượng Nhật Bản. Lúc 03 giờ 51 phút, Oldendorf ra lệnh cho các tàu tuần dương hai bên sườn nổ súng, và cuối cùng đến 03 giờ 56 phút, chiếc thiết giáp hạm khai hỏa ở khoảng cách 19.000 m (20.600 yard).
 
Hệ thống điều khiển hỏa lực bằng radar đã cho phép các thiết giáp hạm Mỹ có thể bắn trúng mục tiêu từ một khoảng cách mà phía Nhật không thể đáp trả do hệ thống điều khiển hỏa lực lạc hậu của họ. Những chiếc ''Yamashiro'' và ''Mogami'' bị phá hủy bởi các quả đạn pháo xuyên thép 356&nbsp;mm (14 inch) và 406&nbsp;mm (16 inch). ''Shigure'' quay mũi bỏ chạy, nhưng bị mất lái và chết đứng. ''Yamashiro'' chìm lúc 04 giờ 19 phút. Cho đến nay, [[Trận chiến vịnh Leyte#Trận chiến eo biển Surigao (25 tháng 10)|Trận chiến eo biển Surigao]] là trận chiến của [[hàng thiết giáp hạm]] cuối cùng trong lịch sử hải quân; ''Yamashiro'' là thiết giáp hạm cuối cùng đối đầu một chiếc khác trong chiến trận, và là một trong số ít ỏi những chiếc bị đánh chìm bởi một thiết giáp hạm khác trong Thế Chiến II. Trong số bảy tàu chiến của Nishimura, chỉ còn lại ''Shigure'' sống sót.
 
Nhiều ngày tiếp theo sau đó là khoảng thời gian khá yên bình đối với ''Tennessee'', cho dù quân Nhật tung ra nhiều cuộc không kích xuất phát từ đất liền nhắm vào lực lượng đang tập trung tại vịnh Leyte. Ngày [[29 tháng 10]], chiếc thiết giáp hạm khởi hành quay trở về Xưởng hải quân Puget Sound. Lần tái trang bị này không làm thay đổi nhiều dáng vẽ bên ngoài của ''Tennessee''. Các khẩu pháo chính được nâng cấp hệ thống điều khiển hỏa lực với radar Mark 8, trong khi radar Mark 4 dùng cho các khẩu pháo 127&nbsp;mm (5 inch) được thay thế bằng thiết bị kiểu phối hợp Mark 12 và Mark 22 đa mục đích. Sự hữu ích của ''Tennessee'' như một tàu phòng không được nâng cao nhờ việc bổ sung radar kiểu SP đo độ cao. Màu ngụy trang của nó được thay thế bằng lớp sơn cuối cùng màu xám đậm vốn được tính toán nhằm giảm thiểu sự phô bày trong các cuộc tấn công tự sát [[thần phong|kamikaze]], bắt đầu được sử dụng từ khi diễn ra việc tái chiếm [[Philippines]] và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong mùa Đông năm [[1944]] và phần còn lại của năm [[1945]] tại [[Thái Bình Dương]].
 
===1945===
Trong khi ''Tennessee'' được tái trang bị, các cuộc đổ bộ được thực hiện tại miền Trung Philippines và tại Luzon; và nhiệm vụ giải phóng Philippines đã sắp hoàn thành. Vào ngày [[2 tháng 2]] năm [[1945]], ''Tennessee'' lên đường hướng đến khu vực Tây Thái Bình Dương, ngang qua Trân Châu Cảng và Saipan, nó đến nơi kịp lúc để gia nhập lực lượng yểm trợ hỏa lực của Chuẩn Đô đốc W.H.P. Blandy tham gia [[trận Iwo Jima]].
 
Sáng sớm ngày [[16 tháng 2]] năm [[1945]], nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực được giao đã đưa ''Tennessee'' đến khu vực dọc theo bờ biển Đông Nam đảo [[Đảo Iō|Iwo Jima]]. Các khẩu pháo chính 356&nbsp;mm (14 inch) của nó nả vào sườn [[núi Suribachi]] ở tầm xa từ 2.000 m (2.200 yard) đến 5.500 m (6.000 yard) trong khi các khẩu pháo hạng hai nhắm vào các điểm cao phía Bắc bãi đổ bộ, các khẩu đội 40&nbsp;mm nhắm vào các mục tiêu khác trên bãi đổ bộ và xác nhiều chiếc tàu Nhật bị đắm gần bờ; chúng từng được sử dụng làm nơi ẩn nấp cho các tay súng bắn tỉa và ổ súng máy tại [[đảo san hô Tarawa|Tarawa]] gây nhiều khó khăn lúc đổ bộ, và từ đó luôn được xem là những mối đe dọa tiềm tàng. Nhiều đám cháy bùng lên trên bờ, và một kho đạn trúng đạn phát nổ một cách ngoạn mục và bùng cháy trong nhiều giờ.
 
Sáng hôm sau, bắt đầu từ 08 giờ 03 phút, ''Tennessee'' cùng với ''Idaho'' và ''Nevada'' tiến sát bờ khoảng 2.700 m (3.000 yard) và bắt đầu khai hỏa. Những con tàu tiến quá gần bờ đến mức có một lúc ''Tennessee'' trúng phải hỏa lực bắn trả của một khẩu đội pháo duyên hải 127&nbsp;mm (5 inch)/38 làm thiệt mạng một người và bị thương bốn người khác. Đến 10 giờ 25 phút, chiếc thiết giáp hạm được lệnh rút lui nhường chỗ cho lực lượng đổ bộ. Người ta nhận thấy là những loạt đạn từng phát một ở tầm gần, sử dụng cách “ngắm thẳng” qua kính ngắm, tỏ ra chính xác và hiệu quả. Khái niệm sử dụng hải pháo 356&nbsp;mm (14 inch) để bắn tỉa có vẻ mới, nhưng xem ra khá hữu dụng.
Dòng 171:
Nhiệm vụ cuối cùng của chiếc thiết giáp hạm trong chiến tranh là hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lực lượng chiếm đóng lên [[Wakayama]]. Nó đến nơi vào ngày [[23 tháng 9]], rồi sau đó tiếp tục đến [[Yokosuka]]. Tại đây, thủy thủ đoàn của ''Tennessee'' có dịp nhìn thấy tận mắt xưởng tàu và căn cứ hoạt động một thời của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] trước khi lên đường đi [[Singapore]] vào ngày [[16 tháng 10]]. Tại Singapore, Đô đốc Oldendorf chuyển cờ hiệu của ông lên chiếc tàu tuần dương [[USS Springfield (CL-66)|''Springfield'' (CL-66)]], và ''Tennessee'' tiếp tục chuyến hành trình dài quay trở về nhà ngang qua [[mũi Hảo Vọng]].
 
Vào dịp kỷ niệm bốn năm ngày Nhật Bản [[trận Trân Châu Cảng|tấn công Trân Châu Cảng]], ''Tennessee'' đang thả neo tại [[Xưởng hải quân Philadelphia]]. Trong những năm đó, chiếc thiết giáp hạm đã bắn tổng cộng 9.347 quả đạn pháo 356&nbsp;mm (14 inch), 46.341 quả đạn 127&nbsp;mm (5 inch) và hơn 100.000 phát đạn phòng không.
 
Quá trình cắt giảm lực lượng Hải quân sau chiến tranh được tiến hành. ''Tennessee'' được xếp loại là cũ, cho dù vẫn còn hữu dụng, và được chọn để đưa về "hạm đội bỏ xó"; và vào năm [[1946]], được cho tiến hành bảo quản và chuẩn bị để ngưng hoạt động. Công việc tiến triển chậm chạp, do số lượng lớn các con tàu được đưa về dự bị và do thiếu nhân lực. Cuối cùng, vào ngày [[14 tháng 2]] năm [[1947]], cờ hiệu của ''Tennessee'' được hạ xuống lần cuối cùng khi nó được chính thức cho ngừng hoạt động.
Dòng 177:
''Tennessee'' ở lại hạm đội dự bị thêm 12 năm nữa, khi thời gian trôi đi và kỹ thuật hải quân không ngừng tiến triển. Ngày [[1 tháng 3]] năm [[1959]], tên nó được xóa khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]]; và vào ngày [[10 tháng 7]] năm đó, nó được bán cho hãng Bethlehem Steel Company để tháo dỡ.
 
''Tennessee'' được tặng thưởng [[Đơn vị Tuyên dương Hải quân]] và mười [[Ngôi sao Chiến đấu]] do thành tích hoạt động trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]].
 
==Xem thêm==
{{Commonscat|USS Tennessee (BB-43)}}
*[[Trận Trân Châu Cảng|Tấn công Trân Châu Cảng]]
*[[Trận Tarawa]]
*[[Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall]]