Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Wyoming (BB-32)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 4 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q3276562 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 36:
}}
{{Infobox ship characteristics
|Ship class=[[Wyoming (lớp thiết giáp hạm)|Lớp thiết giáp hạm Wyoming]]
|Ship displacement= 27.680 tấn
|Ship length=171,3 m (562 ft)
Dòng 57:
|}
 
'''USS ''Wyoming'' (BB-32)''' là một [[thiết giáp hạm]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]], là chiếc dẫn đầu trong số hai chiếc thuộc [[Wyoming (lớp thiết giáp hạm)|lớp ''Wyoming'']] vốn bao gồm cả chiếc [[USS Arkansas (BB-33)|''Arkansas'']]. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt [[USS Wyoming|cái tên này]], nhưng chỉ là chiếc thứ hai được đặt nhằm tôn vinh [[Wyoming|tiểu bang thứ 44]] của [[Hoa Kỳ|Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ]]. ''Wyoming'' từng phục vụ trong cả hai cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh Thế giới thứ nhất]] lẫn [[Chiếnchiến tranh Thếthế giới thứ hai|thứ hai]], cho dù chỉ trong những vai trò hộ tống và sau đó là huấn luyện, trước khi được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ vào năm [[1947]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
Dòng 64:
== Lịch sử hoạt động ==
=== Các hoạt động ban đầu ===
''Wyoming'' khởi hành từ [[Philadelphia]], [[Pennsylvania]] vào ngày [[6 tháng 10]] năm [[1912]], và hoàn tất quá trình trang bị tại [[Xưởng hải quân New York]], [[Brooklyn]], [[Thành phố New York|New York]], trước khi gia nhập hạm đội tại [[Hampton Roads]], [[Virginia]]. Đến khu vực Tidewater vào ngày [[30 tháng 12]] năm [[1912]], nó trở thành soái hạm của [[Chuẩn Đô đốc]] Charles J. Badger, Tư lệnh [[Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Đại Tây Dương]] không lâu sau đó. Lên đường vào ngày [[6 tháng 1]] năm [[1913]], chiếc thiết giáp hạm mới viếng thăm [[kênh đào Panama]] sắp hoàn thành, rồi sau đó tiến hành các cuộc thực tập cơ động mùa Đông tại khu vực ngoài khơi [[Cuba]] trước khi quay trở về [[vịnh Chesapeake]] vào ngày [[4 tháng 3]] năm [[1913]].
 
Sau các cuộc thực hành tác xạ tại Khu vực Huấn luyện Phía Nam ngoài khơi [[Virginia Capes]], ''Wyoming'' trải qua các thay đổi và sửa chữa tại Xưởng hải quân New York từ ngày [[18 tháng 4]] đến ngày [[7 tháng 5]]. Sau đó nó tham gia các cuộc tập trận hạm đội ngoài khơi [[đảo Block]] từ ngày [[7 tháng 5|7]] đến ngày [[24 tháng 5]], có gián đoạn bởi một đợt sửa chữa hệ thống động lực của nó tại [[Newport]], [[Rhode Island]] từ ngày [[9 tháng 5|9]] đến ngày [[19 tháng 5]]. Nó trải qua thêm một đợt sửa chữa khác tại Newport trước khi viếng thăm [[thành phố New York]] trong các ngày [[28 tháng 5|28]]-[[31 tháng 5]] tham gia các lễ hội được tổ chung quanh việc kỷ niệm chiếc thiết giáp hạm [[USS Maine (ACR-1)|''Maine'']] bị phá hủy tại cảng [[La Habana|Havana]] vào ngày [[15 tháng 2]] năm [[1898]].
 
Đi đến [[Annapolis, Maryland]] vào ngày [[4 tháng 6]], ''Wyoming'' nhận lên tàu một nhóm học viên sĩ quan của [[Học viện Hải quân Hoa Kỳ]] để đưa họ trong một chuyến đi thực tập mùa Hè ngoài khơi bờ biển [[New England]] kéo dài đến cuối [[tháng tám|tháng 8]]. Trả các học viên tại Annapolis vào ngày [[24 tháng 8|24]]-[[25 tháng 8]], ''Wyoming'' thực hành hoạt động [[ngư lôi]] và tác xạ tại khu vực thực tập phía Nam ngoài khơi Hampton Roads cho đến cuối mùa Thu. Nó vào ụ tàu tại New York để sửa chữa từ ngày [[16 tháng 9]] đến ngày [[2 tháng 10]], rồi chạy thử máy hết công suất khi hướng về phía Nam đến [[Norfolk, Virginia]], tiếp nối các hoạt động thực tập ngoài khơi Virginia Capes trước khi lên đường đi Châu Âu vào ngày [[26 tháng 10]].
[[Tập tin:USSWyoming2.jpg|nhỏ|300px|trái|USS ''Wyoming'' sắp di chuyển qua bên dưới cầu Brooklyn, thành phố New York, năm 1912]]
Đi đến [[Valletta, Malta]] vào ngày [[8 tháng 11]], chiếc thiết giáp hạm ghé thăm [[Naples, Italy]], và [[Villefranche, Pháp]] trong cuộc hành trình thăm Địa Trung Hải. Sau đó nó rời vùng biển nước Pháp vào ngày cuối cùng của [[tháng mười một|tháng 11]] và về đến New York vào ngày [[15 tháng 12]]. Sau chuyến đi ''Wyoming'' được sửa chữa tại Xưởng hải quân New York, và ở lại đó cho đến hết năm [[1913]]. Lên đường vào ngày [[6 tháng 1]] năm [[1914]], nó đến Hampton Roads ngày hôm sau và được chất than trong ba ngày kế tiếp chuẩn bị cho cuộc tập trận hàng năm được tổ chức tại vùng biển ấm Caribbe.
 
''Wyoming'' thực tập cùng với hạm đội ngoài khơi [[căn cứ hải quân Guantanamo]] từ ngày [[26 tháng 1]] đến ngày [[15 tháng 3]] trước khi quay mũi về phía Bắc hướng đến [[mũi Henry, Virginia]]. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành các cuộc tập luyện và thực hành tác xạ trong khu vực trải dài từ khu vực luyện tập phía Nam ngoài khơi Virginia Capes cho đến [[eo biểnTangier]]. Nó tiếp tục những công việc thường lệ này cho đến ngày [[3 tháng 4]], khi nó quay về Xưởng hải quân New York để đại tu.
Dòng 78:
''Wyoming'' ở lại Veracruz trong những tháng tiếp theo cho đến cuối mùa Thu năm [[1914]], trước khi quay về phía Bắc. Tiến hành các hoạt động thực tập ngoài khơi Virginia Capes trên đường đi, nó đi vào Xưởng hải quân New York vào ngày [[6 tháng 10]] thực hiện các thay đổi và sửa chữa kéo dài cho đến ngày [[17 tháng 1]] năm [[1915]].
 
''Wyoming'' rời Hampton Roads ngày [[21 tháng 1]] sau khi kết thúc việc sửa chữa để tham gia việc tập trận hàng năm tại vùng biển Cuba và [[biểnBiển CaribbeCaribe|Caribbe]]. Quay trở về khu vực Tidewater vào ngày [[7 tháng 4]], chiếc thiết giáp hạm tiến hành các hoạt động diễn tập chiến thuật và cơ động dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ, chủ yếu ngoài khơi [[Block Island]] và khu vực thực tập phía Nam, cho đến cuối mùa Thu khi nó lại quay trở vào Xưởng hải quân New York để đại tu.
 
Sau đợt sửa chữa kéo dài từ ngày [[20 tháng 12]] năm [[1915]] đến ngày [[6 tháng 1]] năm [[1916]], ''Wyoming'' lên đường tham gia các cuộc tập trận tại khu vực luyện tập phía Nam. Sau đó nó di chuyển hơn nữa về phía Nam, đến [[Culebra, Puerto Rico]] vào ngày [[16 tháng 1]]. Sau khi ghé thăm [[Port-au-Prince]], [[Haiti]] vào ngày [[27 tháng 1]], ''Wyoming'' đi vào vịnh Guantanamo vào ngày [[28 tháng 1]] rồi hoạt động tại vùng biển Cuba ngoài khơi các vịnh Guantanamo và Guacanayabo cùng cảng [[Manzanillo, Cuba]] cho đến ngày [[10 tháng 4]], khi nó lên đường đi New York.
 
''Wyoming'' được sửa chữa tại Xưởng hải quân New York từ ngày [[16 tháng 4]] đến ngày [[26 tháng 6]], rồi hoạt động ngoài khơi bờ biển New England, Newport và Virginia Capes cho đến hết năm [[1916]]. Rời New York vào ngày [[9 tháng 1]] năm [[1917]], ''Wyoming'' tiến hành các cuộc cơ động thường xuyên tại khu vực vịnh Guantanamo cho đến giữa [[tháng ba|tháng 3]]. Nó rời vùng biển Caribbe vào ngày [[27 tháng 3]] để có mặt ngoài khơi [[Yorktown, Virginia]] lúc mà Hoa Kỳ tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh Thế giới thứ nhất]] vào ngày [[6 tháng 4]] năm [[1917]].
 
=== Chiến tranh Thế giới thứ nhất ===
Trong những tháng tiếp theo, ''Wyoming'' hoạt động tại khu vực [[vịnh Chesapeake]] cho đến ngày [[13 tháng 11]] năm [[1917]]; khi [[Chuẩn Đô đốc]] [[Hugh Rodman]] đặt cờ hiệu của mình trên thiết giáp hạm [[USS New York (BB-34)|''New York'']] như là Tư lệnh của Hải đội Thiết giáp hạm 9. Sau những chuẩn bị để "hoạt động xa", ''Wyoming'', ''New York'', [[USS Delaware (BB-28)|''Delaware'']] và [[USS Florida (BB-30)|''Florida'']] lên đường vào ngày [[25 tháng 11]] hướng sang [[quần đảo Anh Quốc]], và đã đến [[Scapa Flow]] thuộc [[orkney|quần đảo Orkney]] vào ngày [[7 tháng 12]] năm [[1917]]. Cho dù vẫn giữ lại tên gọi Hải đội Thiết giáp hạm 9 của Hải quân Mỹ, bốn chiếc thiết giáp hạm [[dreadnought]] này trở thành Hải đội 6 trực thuộc [[Hạm đội Grand Anh Quốc]] khi đi đến vùng biển Anh.
 
''Wyoming'' tiến hành các cuộc cơ động và thực tập chiến thuật cùng với các đơn vị của Hạm đội Grand cho đến ngày [[6 tháng 2]] năm [[1918]]. Ngày hôm đó, nó lên đường cùng với các tàu chiến khác của Hải đội Chiến trận 6 và tám [[tàu khu trục]] Anh Quốc để bảo vệ một đoàn tàu vận tải đi đến [[Stavanger, Na Uy]]. Trên đường đi, ''Wyoming'' đã phải cơ động né tránh khi phát hiện những làn sóng [[ngư lôi]] ngoài khơi Stavanger vào ngày [[8 tháng 2]], nhưng đã quay về Scapa Flow an toàn hai ngày sau đó. Trong những tháng tiếp theo, ''Wyoming'' tiếp tục tuần tra ngoài khơi quần đảo Anh Quốc, bảo vệ các tuyến đường biển thương mại chung quanh đó khỏi mối đe dọa của [[Hạm đội Biển khơi Đức]] vốn còn rất hùng mạnh.
Dòng 94:
 
=== Những năm giữa hai cuộc thế chiến ===
Sau đó, mang cờ hiệu của Chuẩn Đô đốc [[William Sims]], Tư lệnh Đội thiết giáp hạm 9, ''Wyoming'' khởi hành vào ngày [[12 tháng 12]] năm [[1918]] từ [[đảo Portland]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] hướng sang [[Pháp]]. Sáng hôm sau, ngoài khơi [[Brest, PhápFinistère|Brest]], nó cùng các thiết giáp hạm khác gặp gỡ chiếc [[USS George Washington (1908)|''George Washington'']], có sự hiện diện [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Woodrow Wilson]] đang trên đường tham dự [[Hội nghị Hòa bình Paris]].
 
Sau khi phục vụ như đội hộ tống danh dự cho Tổng thống và đoàn tùy tùng, ''Wyoming'' đưa Đô đốc Sims quay trở lại [[Plymouth]] cùng với vị Đại sứ Hoa Kỳ vừa mới được bổ nhiệm tại Anh Quốc. Tiễn các vị hành khách đặc biệt rời tàu vào ngày [[14 tháng 12]], chiếc thiết giáp hạm chất lên tàu 381 bao thư tín, và trong vòng vài giờ lại khởi hành đi Hoa Kỳ. Đến [[thành phố New York]] vào ngày [[Lễ Giáng Sinh|Giáng sinh]] năm [[1918]], nó ở lại đây trong dịp đầu năm mới [[1919]]. Vào ngày [[18 tháng 1]] năm [[1919]], nó trở thành soái hạm của Đội thiết giáp hạm 7, Hải đội 3, mang cờ hiệu của Chuẩn Đô đốc [[Robert Coontz]].
 
''Wyoming'' rời New York vào ngày [[1 tháng 2]], và sau các cuộc cơ động mùa Đông tại vùng biển Cuba đã quay trở lại lên phía Bắc, về đến New York vào ngày [[14 tháng 4]]. Tuy nhiên, nó nhanh chóng trở ra biển vào ngày [[12 tháng 5]], phục vụ như một đường dây liên lạc liên tục bắt ngang Đại Tây Dương dẫn đường cho [[khí cầu]] [[Curtiss NC]] trong chuyến bay vượt đại dương của nó. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ dẫn đường và quan trắc khí tượng, ''Wyoming'' quay trở lại Hampton Roads vào ngày cuối cùng của [[tháng năm|tháng 5]].
 
Sau khi nhận lên tàu các học viên mới và đưa họ thực hiện chuyến đi về phía Nam trong khu vực [[vịnh Chesapeake]]-[[Virginia Capes]], ''Wyoming'' đi vào [[Xưởng hải quân Norfolk]] vào ngày [[1 tháng 7]] để chuẩn bị phục vụ lâu dài tại [[Thái Bình Dương]]. Dàn pháo hạng hai được giảm còn 16 khẩu [[Hải pháo 5 inch/51 caliber|pháo {{convert|5|in|mm|abbr=on}}/51 caliber]].<ref name="breyer202"/> Trong ngày hôm đó, nó trở thành một đơn vị của [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Thái Bình Dương]] vừa mới được thành lập, được phân về Đội Thiết giáp hạm 4 trực thuộc Hải đội 6. Sáng ngày [[19 tháng 7]], hạm đội mới, dưới sự dẫn đầu của thiết giáp hạm [[USS New Mexico (BB-40)|''New Mexico'']], lên đường đi sang Thái Bình Dương. Đi qua [[kênh đào Panama]] không lâu sau đó, hạm đội đến [[San Diego|San Diego, California]] vào ngày [[6 tháng 8]].
 
Chuyển sang [[San Pedro, California]] ba ngày sau đó, ''Wyoming'' hoạt động ngoài khơi cảng này cho đến mùa Thu. Sau một đợt đại tu tại [[Xưởng hải quân Puget Sound]] từ ngày [[15 tháng 9]] năm [[1919]] đến ngày [[19 tháng 4]] năm [[1920]], chiếc thiết giáp hạm quay trở lại căn cứ của nó tại San Pedro vào ngày [[4 tháng 5]]. Trong những tháng tiếp theo, nó thực tập ngoài khơi bờ biển Nam California; cũng vào giai đoạn này nó được xếp lại lớp từ "Thiết giáp hạm Số 32" thành '''BB-32''' vào ngày [[17 tháng 7]] năm [[1920]].
 
Khởi hành từ San Diego vào ngày cuối cùng của [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1920]], ''Wyoming'' lên đường đi sang vùng biển [[Hawaii]], tiến hành các cuộc thực tập và cơ động tại đây trong suốt [[tháng chín|tháng 9]]. Quay trở lại San Diego vào ngày [[8 tháng 10]], ''Wyoming'' sau đó tiến hành các cuộc triển khai chiến thuật dọc theo bờ Tây lên phía Bắc đến tận [[Seattle|Seattle, Washington]]. Rời [[San Francisco|San Francisco, California]] vào ngày [[5 tháng 1]] năm [[1921]], ''Wyoming'' trong những tuần lễ tiếp theo sau thực hiện thêm các cuộc thực tập huấn luyện và cơ động trải dài từ [[vịnh Panama]] cho đến [[Valparaíso]], [[Chile]], có sự thị sát của [[Tổng thống Chile]] [[Arturo Alessandri Palma]] vào ngày [[8 tháng 2]]. Quay trở lên phía Bắc, ''Wyoming'' đi đến Xưởng hải quân Puget Sound để sửa chữa vào ngày [[18 tháng 3]] và ở lại đây cho đến mùa Hè.
 
Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, ''Wyoming'' đi xuống phía Nam, và vào ngày [[2 tháng 8]] đã đi đến [[Balboa, Panama]], nơi nó nhận lên tàu Chuẩn đô đốc Hugh Rodman cùng các thành viên của phái bộ [[Peru]] để đưa họ đến [[thành phố New York]]. Đến nơi vào ngày [[19 tháng 8]], nó tiễn các vị khách rời tàu, và vào xế trưa cùng ngày treo cờ hiệu của [[Đô đốc]] [[Hilary P. Jones]], Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ.
Dòng 110:
Trong 41 tháng tiếp theo, ''Wyoming'' hoạt động chủ yếu tại Đại Tây Dương ngoài khơi bờ biển phía Đông Hoa Kỳ, tham gia các cuộc tập trận của Hạm đội Đại Tây Dương kéo dài từ bờ biển New England cho đến Virginia Capes. Nó tham gia các cuộc cơ động thường lệ vào mùa Đông đến vùng biển Caribbe và Cuba, nhiều lần phục vụ như là soái hạm của Phó đô đốc [[John McDonald]], Tư lệnh Lực lượng Thiết giáp hạm và sau này là Tư lệnh Lực lượng Tuần tiễu, cũng như cho những vị kế nhiệm ông, các phó đô đốc [[Newton McCully]] và [[Josiah McKean]]. Trong thời gian này, con tàu được sửa chữa và tu bổ thường xuyên tại Xưởng hải quân New York; nó cũng tham gia một chuyến đi huấn luyện học viên mới vào mùa Hè năm [[1924]], đi đến [[Torbay, Anh Quốc]]; [[Rotterdam, Hà Lan]]; [[Gibraltar]] và [[quần đảo Azore]].
 
Rời New York vào ngày [[26 tháng 1]] năm [[1926]], chiếc thiết giáp hạm tiến hành tập trận tại vùng biển Cuba ngoài khơi vịnh Guatanamo, rồi đi qua kênh đào Panama vào ngày [[14 tháng 2]] gia nhập Hạm đội Chiến trận để thực tập dọc theo bờ biển [[California]]. ''Wyoming'' sau đó đi đến vùng biển Hawaii hoạt động tại đây từ cuối [[tháng tư|tháng 4]] đến đầu [[tháng sáu|tháng 6]]. Sau khi viếng thăm San Diego trong các ngày [[18 tháng 6|18]]-[[22 tháng 6]], nó quay trở lại bờ Đông ngang qua kênh đào Panama, đi đến New York vào ngày [[17 tháng 7]] để tiếp tục các hoạt động ngoài khơi bờ biển New England. Sau các đợt huấn luyện và một chuyến đi đến Cuba và Haiti, nó trải qua đợt đại tu tại Xưởng hải quân New York từ ngày [[23 tháng 11]] năm [[1925]] đến ngày [[26 tháng 1]] năm [[1926]]. Vào giai đoạn trong ụ tàu, [[Trung tá Hải quân]] [[William F. Halsey, Jr.]] đến nhận nhiệm vụ trên con tàu ở cương vị sĩ quan cao cấp (thuyền phó); vị [[Thủy sư Đô đốc]] tương lai phục vụ cùng ''Wyoming'' cho đến ngày [[4 tháng 1]] năm [[1927]].
 
Sau đó ''Wyoming'' tham gia cuộc cơ động hạm đội mùa Đông hàng năm tại vùng biển Carribe, rồi quay trở lên phía Bắc, đến Annapolis vào ngày [[29 tháng 5]] để nhận lên tàu học viên sĩ quan cho chuyến đi huấn luyện mùa Hè. Sau khi ghé qua [[Newport, Rhode Island]]; [[Marblehead, Massachusetts]]; [[Portland, Maine]]; [[Charleston, Nam Carolina|Charleston, South Carolina]] và vịnh Guantanamo, ''Wyoming'' quay trở về Annapolis vào ngày [[27 tháng 8]], tiễn các học viên sĩ quan rời tàu trước khi đi đến [[Xưởng hải quân Philadelphia]] để được hiện đại hóa.
 
Được cải biến các [[nồi hơi]] từ đốt [[than đá|than]] sang đốt [[dầu đốt|dầu]], ''Wyoming'' còn nhận được turbine mới, tăng cường các tấm đắp bảo vệ chống ngư lôi dưới mực nước cùng các cải tiến khác. Hoàn tất việc đại tu vào ngày [[2 tháng 11]] năm [[1927]], nó lên đường hướng về phía Nam đến Norfolk tiến hành chuyến đi chạy thử máy sau đại tu đến khu vực Cuba và [[quần đảo Virgin]] trước khi quay trở lại Philadelphia vào ngày [[7 tháng 12]]. Hai ngày sau, ''Wyoming'' treo lá cờ hiệu của Tư lệnh Lực lượng Tuần tiễu, Phó đô đốc [[Ashley Robertson]].
 
Trong những năm tiếp theo, ''Wyoming'' hoạt động ngoài khơi Norfolk, New York và [[Boston|Boston, Massachusetts]], thực hiện các chuyến đi huấn luyện cho các đơn vị Sĩ quan Hải quân Trừ bị được tuyển từ các đại học [[Đại học Yale|Yale]], [[Harvard]], [[Viện kỹ thuật Georgia|Georgia Tech]] và [[Đại học Northwestern|Northwestern]]. Nhiệm vụ này đưa nó đi khắp từ [[vịnh Mexico]] đến [[Nova Scotia]] và vào vùng biển Carribe cũng như đến quần đảo Azore. Trong một lượt hoạt động như thế, nó đã rời Hampton Roads vào ngày [[12 tháng 11]] năm [[1928]], và trong đêm [[13 tháng 11|13]]-[[14 tháng 11]] đã vớt được tám người sống sót từ chiếc [[SS Vestris|''Vestris'']], đưa họ lên bờ tại Norfolk vào ngày [[16 tháng 11]].
 
Được rút khỏi vai trò soái hạm của Lực lượng Tuần tiễu vào ngày [[19 tháng 9]] năm [[1930]], ''Wyoming'' sau đó lại trở thành soái hạm của Chuẩn đô đốc [[Wat T. Cluverius]], Tư lệnh Đội Thiết giáp hạm 2, và đảm trách vai trò này cho đến ngày [[4 tháng 11]]. Sau khi nhận cờ hiệu của Chuẩn đô đốc [[Harley H. Christy]], Tư lệnh Hải đội Huấn luyện thuộc Hạm đội Tuần tiễu, nó tiến hành chuyến đi huấn luyện trong vịnh Mexico, trong đó nó đã ghé thăm [[New Orleans|New Orleans, Louisiana]].
 
Quay trở lên phía Bắc sau chuyến đi, ''Wyoming'' được đưa về thành phần biên chế giảm thiểu tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày [[1 tháng 1]] năm [[1931]]; đây là nhằm chuẩn bị giải giáp và cải biến nó thành một tàu huấn luyện, theo những điều khoản của [[Hiệp ước Hải quân London]] năm [[1930]] để giới hạn việc chạy đua vũ trang hải quân. Nó được tháo dỡ các tấm đắp chống ngư lôi và đai giáp hông, tháo bỏ các khẩu pháo và máy móc tháp pháo của ba trong số sáu tháp pháo chính. Ngày [[21 tháng 5]] năm [[1931]], ''Wyoming'' được thay thế trong vai trò soái hạm của Hạm đội Tuần tiễu bởi chiếc [[tàu tuần dương hạng nặng]] [[USS Augusta (CA-31)|''Augusta'']], và bởi thiết giáp hạm [[USS Arkansas (BB-33)|''Arkansas'']] như là soái hạm của Hải đội Huấn luyện.