Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cơ học cổ điển”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển liên kết ngôn ngữ 78 đến Wikidata tại d:q11397 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{1000 bài cơ bản}}'''Cơ học''' là ngành khoa học nghiên cứu chuyển động của vật chất trong không gian và tương tác giữa chúng.
 
Thông thường khi nói đến '''cơ học''' người ta hiểu ngầm là '''cơ học cổ điển''', dựa trên cơ sở của các định luật Newton. Cơ học cổ điển nghiên cứu chuyển động của các vật vi mô có vận tốc nhỏ hơn rất nhiều so với vận tốc của ánh sáng, được xây dựng bởi các [[nhà vật lý]] như [[Galileo Galilei]], [[Isaac Newton]] và các [[danh sách nhà toán học|nhà toán học]] sau này như [[William Rowan Hamilton]], [[Joseph Louis Lagrange]]... Chuyển động của các vật thể (các hạt) có vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng được nghiên cứu trong [[cơ học tương đối]], còn chuyển động của các vi hạt được nghiên cứu trong [[cơ học lượng tử]]
 
'''Cơ học cổ điển''' là cơ sở cho sự phát triển các ngành khoa học kỹ thuật và công nghệ như:[[chế tạo máy]], [[xây dựng]], ...
Dòng 10:
[[Tập tin:Galileo_by_leoni.jpg|nhỏ|phải|[[Galileo Galilei]]]]
 
Cơ học chỉ được đánh thức vào [[phục Hưng|thời kỳ Phục Hưng]] ở [[châu Âu]] với những tiến bộ vượt bậc vào [[thế kỷ 16|thế kỉ 16]]. Trong suốt đêm trường [[trung Cổ|thời Trung Cổ]], những lý thuyết ngụy biện của [[Aristoteles|Aristote]] (384-322 TCN) đã ngăn trở rất nhiều sự đi lên của khoa học đích thực. Vào thời này, chúng ta phải kể đến [[Leonardo da Vinci]] ([[1452]]-[[1519]]) với những nghiên cứu về tĩnh học. Tuy nhiên những tên tuổi lớn nhất của giai đoạn huy hoàng này chính là nhà khoa học [[người Ba Lan]] [[Nicolai Copernic]] ([[1473]]-[[1543]]) - người đã phủ nhận mô hình với [[Trái Đất]] là trung tâm vũ trụ của [[Claudius Ptolemaeus|Ptolémée]] (xem [[thuyết địa tâm]]) và mô tả những chuyển động đúng đắn của [[hệ Mặt Trời|hệ mặt trời]], là nhà thiên văn học [[người Đức]] [[Johannes Kepler]] ([[1571]]-[[1630]]) - người đã phát biểu ba định luật mang tên ông về sự chuyển động của các hành tinh, là nhà bác học thiên tài [[người Ý]] [[Galileo Galilei]] ([[1564]]-[[1642]]). Có thể nói Galileo là ông tổ khai sáng ra động lực học: ông đã đưa ra khái niệm [[gia tốc]], phát biểu vào năm [[1632]] [[nguyên lý tương đối Galileo]] và [[nguyên lý quán tính]]. Ông cũng đã nghiên cứu đến rất nhiều những vấn đề khác nhau của cơ học: con lắc, mặt phẳng nghiêng, sự rơi tự do.
 
[[Tập tin:GodfreyKneller-IsaacNewton-1689.jpg|nhỏ|trái|[[Isaac Newton]]]]
 
Kế tiếp sau đó, sang [[thế kỷ 17|thế kỉ 17]], nhà khoa học [[người Pháp]] [[Blaise Pascal]] ([[1623]]-[[1662]]) đã có những nghiên cứu quan trọng về thủy tĩnh học. Nhà vật lý [[người Hà Lan]] [[Christiaan Huygens]] ([[1629]]-[[1695]]) đã phân tích chuyển động quay, đặc biệt là những dao động của [[con lắc]] và đưa ra khái niệm về [[động năng]] cũng như về [[lực hướng tâm]]. Đặc biệt, nhà bác học [[người Anh]] [[Isaac Newton]] ([[1642]]-[[1727]]) đã xuất bản cuốn sách ''Philosphiae naturalis principia mathematica'' (''Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên'') trong đó có nêu lên ba định luật mang tên ông, tạo nên nền tảng của cơ học cổ điển. Chúng ta cũng biết đến Newton với định luật vạn vật hấp dẫn của vũ trụ.
 
[[Thế kỷ 18|Thế kỉ 18]] được xem như là thế kỉ của [[cơ học giải tích]]. Nhà bác học [[người Thụy Sĩ]] [[Leonhard Euler]] ([[1707]]-[[1783]]) đã phát biểu những phương trình về cơ học chất lưu. Ông cũng tham gia vào việc xây dựng nên ngành cơ học giải tích cùng với [[Louis Joseph Lagrange]] ([[1736]]-[[1813]]) và [[Jean Le Rond d'Alembert]] ([[1717]]-[[1783]]).
 
[[Tập tin:WilliamRowanHamilton.jpeg|nhỏ|phải|200px|[[William Rowan Hamilton]]]]
Dòng 24:
Cuối cùng có rất nhiều sự mở rộng của cơ học cổ điển trong lĩnh vực về các môi trường liên tục (thuỷ động lực học hoặc môi trường chịu biến dạng).
 
Chúng ta cũng không được phép quên rằng mặc dù ngày nay đã có rất nhiều những phát minh và khám phá trong cơ học lượng tử và cơ học tương đối ở [[thế kỷ 20|thế kỉ 20]] nhưng những nghiên cứu về hệ hỗn độn trong những năm 1970, về những áp dụng của cơ học cổ điển vẫn là một phần to lớn trong lâu đài [[vật lý học]]. Mặt khác, vẫn còn đó nguyên vẹn rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết trong cơ học cổ điển, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến dao động kép.
 
 
Dòng 41:
 
;[[Động học]]
:tiếng Anh: ''kinetics'', hay là nghiên cứu mô tả những hệ vật chất đang trong quá trình chuyển động: đây được xem là thuỷ tổ của hầu như mọi lĩnh vực khác nhau của cơ học. Ở đây, người ta thường xuyên phải định nghĩa những đại lượng cho phép mô tả chuyển động như là [[động lượng]], [[mô men động lượng|mômen động lượng]]...
 
;[[Tĩnh học]]