Khác biệt giữa bản sửa đổi của “David Hunter”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 5 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q2631722 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 4:
|image= [[Tập tin:David Hunter.jpg|250px]]
|caption=David Hunter
|placeofbirth= [[Princeton, New Jersey]]<ref>Eicher p. 310.</ref><br>(? [[Washington, D.C.|Đặc khu Columbia]]<ref>Warner, p. 243.</ref>)
|placeofdeath= [[Washington, D.C.]]
|allegiance= [[Hoa Kỳ]], [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc]]
|branch=
|serviceyears=1822 &ndash; 1866
Dòng 12:
|unit=
|commands=
|battles= [[Chiến tranh Seminole]]<ref name="ReferenceA">Spartacus Educational website biography.</ref><br>[[Chiến tranh Hoa Kỳ-México|Chiến tranh Hoa kỳ-Mexico]]<ref name="ReferenceA"/><br>[[Nội chiến Hoa Kỳ]]
* [[Trận Bull Run thứ nhất]]
* [[Chiến dịch Thung lũng 1864]]
Dòng 20:
}}
 
'''David Hunter''' ([[21 tháng 7]] [[1802]] &ndash; [[2 tháng 2]] [[1886]]) là sĩ quan cấp [[đại tướng]] quân đội [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc]] thời [[Nội chiến Hoa Kỳ]]. Ông nổi tiếng vì đã không chờ lệnh tự động ban hành ''Lệnh Số 11'' giải phóng nộ lệ tại 3 tiểu bang miền Nam [[Hoa Kỳ]] ([[Georgia, (Hoa Kỳ)|Georgia]], [[Nam Carolina]], và [[Florida]])<ref>Lệnh này lập tức bị bộ chỉ huy tại Washington hủy bỏ vì sợ tạo chấn động bất lợi tại các tiểu bang dọc ranh giới hai miền Nam-Bắc.</ref><ref>Mr. Lincoln and Freedom website.</ref>. Ông cũng là chủ tọa tòa án quân sự xử án các quân nhân tham gia âm mưu [[ám sát]] [[Tổng thống Hoa Kỳ]] [[Abraham Lincoln]].
 
Sau khi tốt nghiệp võ bị năm [[1822]], Hunter theo quân đội cho đến năm [[1831]] thì giải ngũ về [[Illinois]] làm nghề đầu tư và kinh doanh địa ốc. Năm [[1841]] ông tái ngũ và lên chức đại tá năm [[1842]]. Từ năm [[1860]], Hunter liên hệ thư từ nhiều với Abraham Lincoln, nhất là về vấn đề [[nô lệ]].
Dòng 27:
Khi [[Nội chiến Hoa Kỳ]] bùng nổ, Hunter lên chức [[Đại tá]] và nhờ có liên quan mật thiết với tổng thống, được cử làm tướng lữ đoàn chỉ huy quân tình nguyện tại [[Washington, D.C.|Washington]].
 
[[Tháng bảy|Tháng 7]] năm [[1861]] Hunter bị bắn trúng cổ trong [[trận Bull Run thứ nhất]] nhưng không chết. Tháng sau ông lên chức [[đại tướng]], dưới quyền chỉ huy của tướng [[John C. Frémont]]. Ngày [[2 tháng 11]] ông lên thay Frémont chỉ huy Mặt trận miền Tây.
 
Hunter luôn ủng hộ cho người [[Người Mỹ gốc Phi|Mỹ gốc Phi]] nhập ngũ và được cầm súng. Sau [[trận Fort Pulaski]], ông tuyển mộ [[người Mỹ gốc Phi|dân da đen]] trong tiểu bang South Carolina và thành lập đội quân da đen đầu tiên, ''Trung đoàn 1 South Carolina (gốc Phi)''.<ref>[[Trung đoàn 54 quân tình nguyện Massachusetts]] cũng là một đội quân da đen nhưng thành lập tại miền Bắc.</ref> Tuy hành động này lúc ban đầu bị bộ tham mưu chỉ trích nhưng sau đó được chấp thuận.
 
==Thung lũng Shenandoah==
Khi tướng [[Franz Sigel]] thua quân của tướng miền Nam [[John C. Breckenridge]] (trong đó có nhiều lính trừ bị từ trường Võ bị Virginia) tại [[trận New Market]], [[Ulysses Simpson Grant|Ulysses S. Grant]] cho David Hunter thay thế chỉ huy [[binh đoàn Shenandoah miền Bắc|Binh đoàn Shenandoah]] và lực lượng West Virginia ngày [[21 tnáng 5]] năm [[1864]]. Tướng Grant ra lệnh cho Hunter sử dụng chiến thuật [[tiêu thổ]], đốt phá căn cứ và hệ thống tiếp viện trong đất địch. Ngày [[5 tháng 6]], Hunter đánh bại [[William E. Jones]] tại [[trận Piedmont]]. Sau đó kéo đến Lexington và đốt trường Võ bị Virginia để trả thù cho trận New Market. Hunter cho quân lính tha hồ đốt phá nhà cửa, cướp bóc thường dân trong vùng, nhất là Lexington.
 
Henrietta Lee, bà con của tướng miền Nam [[Robert E. Lee]], gửi thư cho Hunter, có đoạn viết : "... ngàn lời nguyền rủa, sự khinh miệt từ người anh hùng kẻ cả, và sự căm giận từ người chân thật chính trực, sẽ luôn đeo đuổi ông và những kẻ như ông, và tên ông sẽ bị gắn liền với chữ ô nhục. Ô NHỤC!" ([[tiếng Anh]]:"''curses of thousands, the scorn of the manly and upright and the hatred of the true and honorable, will follow you and yours through all time, and brand your name ''infamy''. INFAMY.''")<ref>Gallagher, pp. 6-7.</ref>
Dòng 39:
 
==Thời hậu chiến==
Hunter là vệ binh danh dự trong lễ quốc táng tổng thống Abraham Lincoln, và hộ tống linh cửu ông về Springfield. Sau đó Hunter làm chủ tọa tòa án quân sự xử án các nhân vật tham gia âm mưu ám sát Lincoln, ngày [[8 tháng 5]] đến [[15 tháng 7]] [[1865]]. Ông giải ngũ [[tháng bảy|tháng 7]] [[1866]]. Năm [[1873]] ông xuất bản hồi ký quân sự.<ref>Tựa đề: ''Report of the Military Services of Gen. David Hunter, U.S.A., during the War of the Rebellion''.</ref>
 
David Hunter chết tại [[Washington, D.C.]], chôn tại [[nghĩa trang Princeton]], [[Princeton, New Jersey]].