Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Destiny's Child”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Robot: Sửa đổi hướng |
|||
Dòng 17:
| Nhạc cụ =
| Kiểu giọng =
| Thể loại = [[Rhythm and blues|R&B]], [[soul]], [[hip hop]], [[pop]]
| Nghề nghiệp =
| Năm hoạt động = 1997–2006
Dòng 30:
| Hòa âm =
}}
'''Destiny's Child''' (tạm dịch: '''Đứa trẻ của số phận''', còn được gọi là '''DC''') là một [[
Sau những thành công ấy chính là những mâu thuẫn nội bộ của nhóm, Roberson và Luckett đã kiện quản lý của nhóm là [[Matthew Knowles]] chia lợi nhuận của nhóm không đều cho các thành viên. Sau đó, nhóm đã thay thế hai thành viên mới là Williams và [[Farrah Franklin]]. Nhưng vào năm 2000, Franklin cũng đã rời nhóm và chỉ còn lại ba thành viên tiếp tục. Nhóm đã phát hành album thứ ba của mình mang tên ''[[Survivor (album của Destiny's Child)|Survivor]]'', một trong những album thành công nhất của nhóm cùng các đĩa thành công trên thế giới như "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women]]", "[[Survivor (bài hát của Destiny's Child)|Survivor]]" và "[[Bootylicious]]". Vào 2002, Destiny's Child tuyên bố rằng nhóm sẽ tạm thời tan rã để mỗi thành viên có thể phát triển sự nghiệp solo của mình. Sau đó, nhóm đã trở lại vào năm 2004 với album tiếp theo mang tên, ''[[Destiny Fulfilled]]''. Trong khoản thời gian thực hiện tour diễn thế giới của mình, nhóm đã tuyên bố rằng họ sẽ chính thức tan rã và sẽ đi theo sự nghiệp solo riêng của mình.
Tính đến nay nhóm đã phát hành bốn [[album phòng thu]] và bốn đĩa đơn quán quân tại Mỹ. Họ đã bán được tổng cộng 60 triệu đĩa trên toàn thế giới,<ref>"[http://books.google.com/books?id=DhUEAAAAMBAJ&lpg=PA44&dq=destiny%27s%20child%20billboard%202006&pg=PA30#v=onepage&q&f=false Billboard Books]". ''Billboard''. January 14, 2006.</ref><ref>[http://www.destinyschild.com/home.html Destiny's Child Big Surprise Farewell to Fans at Barcelona Concert]. ''Trang web chính thức của Destiny's Child'', 2004.</ref> và trở thành một trong những nhóm nhạc có số lượng đĩa bán ra cao nhất tại Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích web |title=Top Selling Artists |url=http://riaa.com/goldandplatinum.php?content_selector=top-selling-artists|work=Recording Industry Association of America |accessdate=2011-07-16}}</ref> Tạp chí ''[[
== Sự nghiệp âm nhạc ==
=== 1990–1997: Bắt đầu sự nghiệp và Girl's Tyme ===
[[Tập tin:Girls-tyme.jpg|nhỏ|phải|200px|Những thành viên của nhóm [[Girl's Tyme]]]]
Vào năm 1990, [[Beyoncé Knowles]] gặp rapper [[LaTavia Roberson]] trong khi họ đang thi cuộc thi tuyển chọn ca sĩ cho một nhóm nhạc.<ref name="Kaufman">{{chú thích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called 'Survivor' For Nothing) |url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2005-06-13 |accessdate=2008-04-13}}</ref> tại [[Houston, Texas|Houston]], [[Texas]], nơi họ gia nhập nhóm, biểu diễn rap và nhảy. Sau đó, [[Kelly Rowland]], người đã phải di chuyển đến nhà của Knowles vì một số vấn đề gia đình, cũng đã gia nhập nhóm vào năm 1991. Ban đầu nhóm mang tên gọi là [[Girl's Tyme]] với sáu thành viên, trong đó có [[Támar|Támar Davis]] và hai chị em Nikki và Nina Taylor.<ref name="E!">{{Cite video |title=Beyonce: All New |work=E! Online |accessdate=2008-04-21}}</ref><ref name="People">{{chú thích web |title=Beyoncé Knowles: Biography |url=http://www.people.com/people/beyonce_knowles/biography |work=People |accessdate=2008-04-13}}</ref> Nhờ Knowles và Rowland, nhóm Girl's Tyme dành được sự chú ý trên toàn quốc:<ref name="E!"/> nhà sản xuất R&B Arne Frager từ bờ biển phía Tây đã phải bay đến Houston để gặp mặt nhóm. Anh đưa họ đến phòng thu The Plant Recording Studios, tại [[Bắc California]], và anh khá chú ý đến giọng hát của Knowles nhờ vào tính cách cũng như khả năng ca hát của cô.<ref name="E!"/> Sau khi ký hợp đồng thu âm với Frager, nhóm đã tập luyện để có thể thi đấu trong chương trình tìm kiếm tài năng nổi tiếng thời điểm ấy, ''[[Star Search]]''.<ref name="E!"/> Nhưng đáng tiếc rằng họ đã bị loại khỏi cuộc thi, mà theo Knowles, ca khúc dự thi của họ là một chọn lựa sai lầm<ref>{{chú thích báo |last=Farley |first=Christopher John |title=Call Of The Child |url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,998976,00.html |work=Time |date=2001-01-15 |accessdate=2008-04-12}}</ref> vì thực ra họ đã phải rap thay vì hát.<ref name="Kaufman"/>
Cha của Knowles, [[Mathew Knowles|Mathew]], đã tự nguyện trở thành [[người quản lý]] của nhóm.<ref name="E!"/><ref name="VH1Driven">{{chú thích web |title=Driven: Beyonce Knowles |url=http://www.vh1.com/shows/dyn/driven/65240/episode_about.jhtml |work=VH1 |publisher=MTV Networks |accessdate=2008-05-22}}</ref> Mathew Knowles đã loại Davis cùng chị em Taylor và thay thế bằng [[LeToya Luckett]] vào năm 1993, khiến nhóm còn lại bốn thành viên.<ref name="Kaufman"/><ref name="E!"/> Ngoài việc dành thời gian đến nhà thờ ở Houston, Girl's Tyme còn tập luyện ở vườn sau nhà và tiệm Salon Headliners của mẹ Knowles, Tina. Nhóm cũng đã trình diễn tại Đại lộ Montrose ở Houston, nơi có tiệm của mẹ Knowles, và đôi khi nhận được tiền boa của các khách hàng. Trong lúc đi học, Girl's Tyme thường trình diễn tại những sân khấu địa phương. Đến hè, Mathew Knowles đã mở một trại hè và cùng nhóm tập luyện vũ đạo và luyện thanh rất khắc nghiệt.<ref name="DunnDate">{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/theobserver/2001/jun/10/life1.lifemagazine5|title=Date with destiny|last=Dunn|first=Jancee|date=2001-06-10|work=The Observer|accessdate=2009-02-27 | location=London}}</ref> Sau những buổi tập luyện, họ bắt đầu trình diễn các tiết mục mở màn cho những nhóm [[Rhythm and blues|R&B]] đã thành lập như [[SWV]], [[Dru Hill]] và [[IMx|Immature]].<ref name="Kaufman"/> Tina Knowles đã thiết kế trang phục cho những màn trình diễn của nhóm và luôn luôn sát cánh bên họ, trong khi đó, cô để lại tiệm salon của mình cho cô bạn thân, Vernell Jackson, quản lý một thời gian ngắn.<ref name="DunnDate"/>
Sau vài năm, Girl's Tyme thay đổi tên của nhóm liên tục thành Something Fresh, Cliché, the Dolls, và Destiny.<ref name="GillingsSoul">{{chú thích báo|url=http://www.essence.com/2001/04/22/destinys-child-soul-survivors/|title=Destiny's Child: Soul-Survivors|last=Gillings|first=Andrew|date=2001-04-22|work=Essence|accessdate=2011-07-21}}</ref> Nhóm đã ký hợp đồng với hãng [[Elektra Records]] nhưng sau đó họ đã hủy hợp đồng vài tháng sau trước khi họ có thể phát hành album.<ref name="VH1Driven"/> Việc theo đuổi hợp đồng thu âm này đã ảnh hưởng đến gia đình nhà Knowles: năm 1995, Mathew từ bỏ công việc buôn bán thiết bị y tế,<ref name="E!"/> điều làm giảm thu nhập nhà Knowles đi một nửa, và bố mẹ cô đã li thân thời gian ngắn do áp lực.<ref name="E!"/><ref name="VH1Driven"/> Sau những vấn đề rắc rối gia đình, năm 1996, họ cuối cùng đổi tên thành Destiny's Child, được trích từ một đoạn [[Cuốn sách của Tiên tri Isaia]].<ref name="Kaufman"/><ref name="GillingsSoul"/>
Dòng 49:
=== 1998–2000: Bứt phá và cắt giảm thành viên ===
[[Tập tin:Wyclefjean (300dpi).jpg|nhỏ|trái|180px|[[Wyclef Jean]] là người phối lại ca khúc "[[No, No, No (bài hát của Destiny's Child)|No, No, No]]", giúp đĩa đơn đầu tiên của nhóm Destiny's Child thành công vang dội.]]
Destiny's Child sau đó đã quyết định phát hành album đầu tiên của mình, được [[Destiny's Child (album)|lấy tên của nhóm]] và được phát hành vào ngày 17 tháng 2, 1998, thực hiện bởi năm nhà sản xuất nổi tiếng là [[Rob Fusari]], [[Jermaine Dupri]], [[Wyclef Jean]], [[Dwayne Wiggins]] và Corey Rooney.<ref name="Kaufman"/> ''Destiny's Child'' đứng vị trí 67 trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] và vị trí 40 trên bảng ''Billboard'' [[Top R&B/Hip-Hop Albums]].<ref name="BillAlbumChart">{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/artist/destiny-s-child/chart-history/248498#/album/destiny-s-child/destiny-s-child/281764|title=Destiny's Child - Destiny's Child (2008)|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate=2009-02-24}}</ref> Đến nay album đã bán tổng cộng một triệu bản tại Hoa Kỳ, trở thành album Bạch kim do tổ chức [[Hiệp hội Thu âm Hoa Kỳ]] (RIAA) chứng nhận.<ref name="RIAA">{{chú thích web|url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Destiny%20Child&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2009&sort=Artist&perPage=25|title=Gold and Platinum|publisher=Recording Industry Association of America|accessdate=2009-02-24}}</ref> Phiên bản phối lại của đĩa đơn đầu tiên, "[[No, No, No (bài hát của Destiny's Child)|No, No, No]]", leo lên dẫn đầu trên bảng xếp hạng ''[[
Sau thành công của album đầu tay, Destiny's Child nhanh chóng quay trở lại phòng thu cùng một dàn nhà sản xuất khác, trong đó có [[Kevin "She'kspere" Briggs]]<ref name="Kaufman"/> và [[Rodney Jerkins]]. Họ tiếp tục phát hành album mới là ''[[The Writing's on the Wall]]'' vào ngày 27 tháng 7, 1999 và trở thành album đột phá của họ.<ref name="Anthony"/> ''The Writing's on the Wall'' đứng vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng ''Billboard'' 200 và vị trí á quân trên bảng xếp hạng R&B đầu năm 2000.<ref name="BillAlbumChart"/> "[[Bills, Bills, Bills]]" sau đó đã được phát hành với tư cách là đĩa đơn quán quân vào năm 1999, đứng đầu tại ''Billboard'' Hot 100, và trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên tại Mỹ của họ.<ref name="Kaufman"/> ''The Writing's on the Wall'' đã được ghi nhận như là album đột phá của Destiny's Child, thúc đẩy sự nghiệp và đưa tên tuổi của họ đến với đông đảo công chúng hơn.<ref name="DunnDate"/><ref name="FlynnLose">{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/2006/aug/18/urban.popandrock|title='Of course you can lose yourself'|last=Flynn|first=Paul|date=2006-08-18|work=The Guardian|accessdate=2009-02-26 | location=London}}</ref> Nhưng chìa khóa thành công của album này chính là nhờ đĩa đơn thứ ba mang tên "[[Say My Name]]",<ref name="FlynnLose"/> ca khúc chiếm vị trí số 1 trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100 đến ba tuần liên tiếp. Sự phát hành thành công những đĩa đơn trên đã củng cố cho doanh thu của album,<ref name="People"/><ref name="PowersFeminism">{{chú thích báo|url=http://www.nytimes.com/2001/04/29/arts/29POWE.html?ex=1235883600&en=ceac7e7d023ccf18&ei=5070|title=Destiny's Child: In Tune With the New Feminism|last=Powers|first=Ann|date=2001-04-29|work=The New York Times|accessdate=2009-02-27}}</ref> cuối cùng bán được hơn 8 triệu bản ở Hoa Kỳ giành 8 đĩa bạch kim bởi RIAA,<ref name="Kaufman"/><ref name="RIAA"/> còn album ''The Writing's on the Wall'' đã bán được tổng cộng 15 triệu bản toàn thế giới và trở thành một trong những album thành công nhất năm 2000.<ref name="musicstarx.net">{{chú thích web|url=http://www.musicstarx.net/biography/biography-destinys-child/|title=Destiny's Child Biography and Sales}}</ref>
Dòng 60:
Đến cuối năm 2000, Roberson và Luckett đã ngừng kiện Knowles và Rowland trong một cuộc trao đổi riêng, nhưng họ vẫn tiếp tục chống lại người quản lý của mình. Trong cuộc trao đổi riêng giữa hai bên, họ đều chấp thuận việc không tấn công nhau trên sóng truyền thông.<ref name="Kaufman"/> Roberson và Luckett sau đó đã tham gia vào nhóm nhạc Anjel nhưng không gây tiếng vang và số lượng đĩa không bán chạy. Trong khi đó, Destiny's Child vẫn tiếp tục thành công. Những năm sau có lẽ là những năm thành công nhất của nhóm,<ref name="Kaufman"/> và đã giúp họ trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng.<ref name="People"/> "Say My Name" đã trở thành đĩa đơn quán quân có số lượng đĩa bán ra thành công nhất của nhóm từ trước đến nay.<ref name="Anthony"/> Đĩa đơn cuối cùng của album ''The Writing's on the Wall'' là "[[Jumpin' Jumpin']]", đồng thời cũng là đĩa đơn nằm trong top 10. Trong thời gian này, Destiny's Child bắt đầu trình diễn mở màn cho các ca sĩ nổi tiếng như [[Britney Spears]] và [[Christina Aguilera]].<ref name="Kaufman"/>
Sau đó, Destiny's Child đã thu âm ca khúc nhạc phim cho bộ phim [[Charlie's Angels (phim)|''Charlie's Angels'']]. Ca khúc sau đó được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 10 năm 2000 với tên, "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women Part 1]]", tiếp tục đạt vị trí số 1 trong 11 tuần liền trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100 từ tháng 11 năm 2000 đến tháng 1 năm 2001,<ref name="People"/> trở thành đĩa đơn đứng nhất lâu nhất của Destiny's Child và trong năm đó tại Mỹ.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1000808321#/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1000808321|title=Chart Beat Bonus: Endless 'Love'|date=2005-02-18|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate=2010-07-15}}</ref> Chính vì sự thành công của đĩa đơn này mà album nhạc phim của ''Charlie's Angels'' đã tiêu thụ 1.5 triệu bản vào năm 2001.<ref name="GillingsSoul"/> Năm 2000, Destiny's Child đã nhận giải Sammy Davis Jr. của Soul Train với hạng mục Ngôi sao giải trí của Năm.<ref name="GillingsSoul"/>
=== 2001–2003: ''Survivor'', những phát hành khác và tạm thời tan rã ===
Tại lễ trao giải [[Billboard Music Awards|''Billboard'' Music Awards]] năm 2001, Destiny's Child đã giành được một số giải thưởng, trong đó có Nghệ sĩ của năm và Cặp/Nhóm của năm,<ref>{{chú thích báo|url=http://www.mtv.com/news/articles/1374996/20001206/sisqo.jhtml|title=Sisqo Wins Big At Billboard Awards|last=VanHorn|first=Teri|date=2000-12-06|publisher=MTV|accessdate=2009-02-26}}</ref> họ tiếp tục giành giải Nghệ sĩ của năm trong năm giải thưởng khác vào năm sau đó.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.mtv.com/news/articles/1451323/20011205/destinys_child.jhtml|title=Destiny's Child, R. Kelly Win Big, Britney Gets Soaked At Billboard Awards|last=Vineyard|first=Jennifer|date=2001-12-05|publisher=MTV|accessdate=2009-02-26}}</ref> Vào tháng 9 năm 2000, nhóm đồng thời cũng mang về hai giải Soul Train Lady of Soul Awards, trong đó có Album R&B/Soul của Năm và Nhóm nhạc của năm cho album ''The Writing's on the Wall''.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.rollingstone.com/artists/tonibraxton/articles/story/5923742/mary_j_blige_angie_stone_destinys_child_win_big_at_soul_awards|title=Mary J. Blige, Angie Stone, Destiny's Child Win Big at Soul Awards |last=Schafer|first=Gabrielle|date=2000-09-05|work=Rolling Stone|accessdate=2009-02-26|archiveurl = http://web.archive.org/web/20060818015916/http://www.rollingstone.com/artists/tonibraxton/articles/story/5923742/mary_j_blige_angie_stone_destinys_child_win_big_at_soul_awards |archivedate = August 18, 2006|deadurl=yes}}</ref> Destiny's Child lại tiếp tục trở lại phòng thu và thu âm album thứ ba của họ, ''[[Survivor (album của Destiny's Child)|Survivor]]'', vào khoảng cuối năm 2000 đến đầu năm 2001. Trong quá trình thực hiện, Knowles đảm nhiệm vai trò đồng sản xuất và đồng sáng tác gần như toàn bộ album.<ref name="Kaufman"/><ref name="VanHornCDs">{{chú thích báo |last=VanHorn |first=Teri |title=Destiny's Child Solo CDs Won't Compete With Group, Each Other |url=http://www.mtv.com/news/articles/1375022/20001208/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2008-12-08 |accessdate=2008-05-13}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.mtv.com/bands/archive/d/destiny01/index2.jhtml|title=Destiny's Child: Survivors|publisher=MTV|accessdate=2009-02-26}}</ref> ''Survivor'' trở thành album thành công tại các cửa hàng vào mùa xuân năm 2001, giúp album dẫn đầu bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] với hơn 663,000 bản đã được tiêu thụ trong tuần đầu tiên.<ref name="BillAlbumChart"/><ref>{{chú thích báo |last=Cohen |first=Jonathan |title=Destiny's Child Shoot Straight To No. 1 |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=862896 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=2001-05-09 |accessdate=2008-05-22}}</ref> Ba đĩa đơn đầu trích từ album là "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women Part I]]", "[[Survivor (bài hát của Destiny's Child)|Survivor]]" và "[[Bootylicious]]" đều vươn lên top 3 tại Mỹ và rất thành công tại các quốc gia khác;<ref name="Kaufman"/> hai đĩa đơn đầu đều là hai đĩa đơn quán quân nhiều tuần liền tại Anh.<ref>{{chú thích báo |last=Sexton |first=Paul |title=Destiny's Child 'Survive' On UK Singles Chart |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=848568 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=2001-04-23 |accessdate=2008-05-22}}</ref> Album còn được chứng nhận bốn-lần đĩa Bạch kim tại Hoa Kỳ<ref name="RIAA"/> và hai lẫn đĩa Bạch kim tại Úc.<ref>{{chú thích web |title=ARIA Charts - Accreditations - 2001 Albums |url=http://www.aria.com.au/pages/aria-charts-accreditations-albums-2001.htm |work=Australian Recording Industry Association |accessdate=2008-05-22}}</ref> Đến nay, Survivor đã bán hơn 12 triệu bản toàn thế giới.<ref name="musicstarx.net"/>
[[Hình:Beyonce Independent.jpg|nhỏ|trái|Beyoncé đang trình diễn ca khúc thành công của Destiny's Child, "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women Part I]]", đĩa đơn quán quân nhiều tuần nhất của nhóm]]
Vào tháng 10 năm 2001, ''Destiny's Child'' phát hành một album [[
Vào cuối năm 2000, thông báo về việc bắt đầu những dự án cá nhân đơn lẻ, bao gồm cả việc phát hành những album solo của mỗi thành viên,<ref name="VanHornCDs"/> đây chính là một ý tưởng của người quản lý của họ.<ref name="CNN">{{chú thích báo |title=Kelly Rowland pursues her own destiny |url=http://edition.cnn.com/2003/SHOWBIZ/Music/01/23/mroom.rowland/index.html |work=Cable News Network |date=2003-01-23 |accessdate=2008-05-22}}</ref> Vào năm 2002, Williams phát hành album solo của cô mang tên ''[[Heart to Yours]]'', một tuyển tập nhạc [[Gospel]] đương đại.<ref name="Kaufman"/> Album đứng giành vị trí thứ 1 trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Top Gospel Albums. Cùng ngày phát hành ''Heart to Yours'', Destiny's Child cũng đã phát hành tự truyện mang tên ''Soul Survivors''.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.mtv.com/news/articles/1452910/20020315/story.jhtml|title=Destiny's Child Solo Gospel Album Features 9/11 Tribute|last=Corey|first=Moss|date=2002-03-15|publisher=MTV|accessdate=2009-02-26}}</ref> Rowland sau đó cũng đã kết hợp với nghệ sĩ [[hip hop]] [[Nelly]] trong ca khúc "[[Dilemma (bài hát)|Dilemma]]", trở thành một ca khúc thành công toàn cầu và giúp cô nhận được giải Grammy cho Kết hợp Rap/Hát hay nhất;<ref name="CNN"/> trở thành người đầu tiên trong nhóm có đĩa đơn dẫn đầu bảng xếp hạng tại Mỹ. Cùng năm đó, Knowles đã có vai diễn đầu tiên trong phim ''[[Austin Powers in Goldmember]]''. Cô còn thu âm ca khúc "[[Work It Out (bài hát của Beyoncé Knowles)|Work It Out]]", được sử dụng làm nhạc phim và trở thành đĩa đơn đầu tay của cô.<ref name="Kaufman"/>
Dòng 71:
Sau thành công của "Dilemma", Rowland phát hành album đầu tay mang tên ''[[Simply Deep]]'' được dự kiến sẽ phát hành vào đầu năm 2003 nhưng đã dời lại sớm hơn vào tháng 9 năm 2002.<ref name="Corey6">{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Nelly Hit Forces Change In Plans For Destiny's Child LPs |url=http://www.mtv.com/news/articles/1456206/20020722/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2002-07-22 |accessdate=2008-05-08}}</ref> Rowland sau đó đã trở thành tên tuổi nổi tiếng toàn cầu khi ''[[Simply Deep]]'' leo lên đứng đầu bảng xếp hạng [[UK Albums Chart]].<ref>{{chú thích báo |title=Tatu top singles chart again |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/2742967.stm |work=British Broadcasting Corporation |date=2003-02-09 |accessdate=2008-05-22}}</ref> Cùng năm đó, cô cũng tham gia xuất hiện trong bộ phim kinh dị ''[[Freddy vs. Jason]]''. Trong khi đó, Knowles đang thực hiện bộ phim thứ hai của mình là "[[The Fighting Temptations]]", và xuất hiện trong đĩa đơn "[['03 Bonnie and Clyde]]" của nghệ sĩ rap hay còn được biết đến là bạn trai sau này của cô, [[Jay-Z]], giúp mở đường cho việc phát hành album đơn đầu tay của Knowles.<ref name="Louie">{{chú thích web |last=Louie |first=Rebecca |title=Crazy in love with Beyonce |url=http://www.nydailynews.com/entertainment/music/2007/08/05/2007-08-05_crazy_in_love_with_beyonce.html |work=New York Daily News |date=2007-08-06 |accessdate=2008-05-22}}</ref>
Do sự thành công của "Dilemma", album đầu tay của Knowles, ''[[Dangerously in Love]]'', đã phải trì hoãn nhiều lẫn cho tới tháng 6 năm 2003.<ref name="Corey6"/><ref>{{chú thích báo |last=Susman |first=Gary |title='Anger' Management |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,456067,00.html |work=Entertainment Weekly |date=2003-06-02 |accessdate=2008-05-22}}</ref> Đây chính là thành công nổi trội nhất trong nhóm.<ref name="BBCSplit">{{chú thích báo|url=<!--http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/music/4087228.stm-->http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/4087228.stm|title=R&B stars Destiny's Child split|date=2005-06-13|publisher=BBC|accessdate=2008-10-04}}</ref> ''Dangerously in Love'' sau đó xuất hiện tại vị trí quán quân trên bảng xếp hạng ''Billboard'' 200, với 317,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên.<ref name="Martens">{{chú thích báo |last=Todd |first=Martens |title=Beyonce, Branch Albums Storm The Chart |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1926761 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=2003-07-02 |accessdate=2008-05-22}}</ref> Album gồm các đĩa đơn thành công như "[[Crazy in Love (bài hát của Beyoncé Knowles)|Crazy in Love]]", và "[[Baby Boy (bài hát của Beyoncé Knowles)|Baby Boy]]"; hai đĩa đơn nằm trong top 5, "[[Me, Myself and I (bài hát của Beyoncé Knowles)|Me, Myself and I]]" và "[[Naughty Girl (bài hát của Beyoncé Knowles)|Naughty Girl]]". Album được chứng nhận bốn-lần Bạch kim do tổ chức [[
[[Dwayne Wiggins]], người sản xuất những bản thu đầu tiên cho nhóm Destiny's Child, đã nộp đơn kiện cùng luật sư cũ của anh (Bloom, Hergott, Diemer & Cook LLP), đòi bồi thường 15 triệu đô-la khi giảm bớt thỏa thuận hợp đồng mà không có sự đồng ý của anh. Trong bản hợp đồng gốc của anh có nói rõ sẽ cùng công ty Sony Music/Columbia và nhóm Destiny's Child làm việc với anh trong các dự án âm nhạc và họ sẽ mua bản quyền các ca khúc từ anh đến bảy năm liền, nhưng tiền bản quyền chỉ được chi trả vào ba album đầu tiên. Vụ việc đã được giải quyết với một số tiền không được tiết lộ.<ref name="wiggins">[http://new.music.yahoo.com/tony-toni-tone/news/tony-toni-tone-member-sues-attorney-for-letting-destinys-child-off-easy--12060354 "Tony Toni Tone Member Sues Attorney For Letting Destiny's Child Off Easy"], Yahoo Music News. Retrieved 2009-12-26</ref>
Dòng 92:
[[Hình:Destiny's Child Tour.jpg|nhỏ|trái|Destiny's Child trình diễn ca khúc "[[Say My Name]]" trong tour diễn cuối cùng của họ, [[Destiny Fulfilled ... And Lovin' It]]]]
Destiny's Child đã phát hành album tuyển tập mang tên ''[[Number 1's (album của Destiny's Child)|#1's]]'', vào ngày 25 tháng 10, 2005. Album này gồm những đĩa đơn đã giành vị trí thứ nhất của họ như "Independent Woman Part 1", "Say My Name" và "Bootylicious". Ba ca khúc mới được thu âm cũng đã kèm theo trong album này, gồm "[[Stand Up For Love]]", bài hát chính thức cho Ngày Quốc tế Trẻ em, "[[Check on It]]", một bài hát Knowles thu âm cho bộ phim ''[[The Pink Panther (phim năm 2006)|The Pink Panther]]''' và "Feel the Same Way I Do", bài hát cuối cùng nằm trong album ''#1's''.<ref name="Moss#1's">{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child Look Back With #1's Before Going Their Separate Ways |url=http://www.mtv.com/news/articles/1510101/09212005/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2005-09-21 |accessdate=2008-05-13}}</ref> ''#1's'' đồng thời cũng được phát hành ở dạng [[DualDisc]], nhưng vẫn chung danh sách các ca khúc, kèm theo 7 video được chọn lọc và một đoạn phim quảng bá cho DVD của nhóm là ''[[Destiny's Child: Live in Atlanta]]''.<ref name="Moss#1's"/> DVD này được quay tại [[
Tựa album này nói đúng ra phải gồm những đĩa đơn quán quân của nhóm. Trong khi những lời tựa của tuyển tập không đưa ra bất cứ thông tin nào liên quan đến sự trình diễn thương mại của các ca khúc trong album. Keith Caulfield của ''[[
===2006-12: Tan rã và những dự án gần đây===
Dòng 100:
Destiny's Child đã tái hợp với màn trình diễn chia tay tại [[NBA All-Star Game 2006]] vào ngày 19 tháng 2 ở [[Houston, Texas]]. Nhưng Knowles lại phát biểu rằng: “Đây chỉ là album cuối cùng, không phải là buổi diễn cuối cùng.”<ref name="TraceyNBA">{{chú thích báo|url=http://www.rollingstone.com/news/story/9215816/destinys_child_reunite_for_nba|title=Destiny's Child Reunite for NBA |last=Ford|first=Tracey|date=2006-01-31|work=Rolling Stone|accessdate=2008-08-04|archiveurl = http://web.archive.org/web/20080318185310/http://www.rollingstone.com/news/story/9215816/destinys_child_reunite_for_nba |archivedate = March 18, 2008|deadurl=yes}}</ref><ref>{{chú thích báo |author=MTV News staff |title=For The Record: Quick News On Kanye West, Destiny's Child, Metallica, Kelly Clarkson, Paris Hilton & More |url=http://www.mtv.com/news/articles/1523969/20060208/west_kanye.jhtml? |work=MTV News |date=2006-02-08 |date=2008-05-13}}</ref> Trong cùng tháng, họ cũng đã trình diễn lần cuối trên truyền hình tại đêm hòa nhạc từ thiện Fashion Rock ở New York.<ref name="TraceyNBA"/> Vào ngày 28 tháng 3, 2006, Destiny’s Child đã nhận ngôi sao thứ 2,035 trên [[Đại lộ Danh vọng Hollywood]].<ref>{{chú thích báo |author=Associated Press |title=Destiny's Child Gets Star on Walk of Fame |url=http://www.foxnews.com/story/0,2933,189491,00.html?sPage=fnc/entertainment/beyonce |work=FOX News |date=2006-03-29 |accessdate=2008-05-13}}</ref> Tại lễ trao giải [[BET Awards]] 2006, Destiny's Child đã nhận giải Nhóm nhạc Xuất sắc nhất, hạng mục này cũng được nhóm nhận giải vào năm 2005 và 2001.<ref>{{chú thích web|url=http://www.ew.com/ew/gallery/0,,20208394_8,00.html|title=BET Awards Style: 28 Past Winner Portraits|work=Entertainment Weekly|accessdate=2009-02-26}}</ref>
Sau khi tan rã, các thành viên trong nhóm tiếp tục sự nghiệp solo của mình, trong đó có [[LeToya Luckett]], người phát hành album đầu tay của mình mang tên ''[[LeToya (album)|LeToya]]'', vào tháng 7 năm 2006, dẫn đầu bảng xếp hạng ''Billboard'' 200.<ref>{{chú thích báo | url=http://www.billboard.com/#/news/letoya-powers-right-to-no-1-on-billboard-1002949246.story | title=LeToya Powers Right To No. 1 On Billboard 200 | accessdate=2009-02-24 | last=Cohen | first=Jonathan | date=2006-08-02 | work=Billboard | publisher=Nielsen Business Media, Inc}}</ref> Knowles sau đó đã tham gia vào bộ phim hài năm 2006, ''[[The Pink Panther (phim năm 2006)|The Pink Panther]]'', và tham gia vào việc thu âm nhạc phim với đĩa đơn quán quân "[[Check on It]]".<ref name="IGN">{{chú thích web |last=Otto |first=Jeff |title=Interview: Beyonce Knowles |url=http://movies.ign.com/articles/686/686598p1.html|work=IGN|date=2006-02-08 |accessdate=2011-07-21}}</ref> Cô sau đó tiếp tục nhận vai nữ chính trong bộ phim ''[[
Vào năm 2007, Rowland đã phát hành album solo thứ hai của cô mang tên ''[[Ms. Kelly]]''. Tiếp đó, ngày 26 tháng 6, 2007, nhóm đã tiếp tục cùng nhau trình diễn tải giải [[BET Awards]] năm 2007. Knowles đã trình diễn "Get Me Bodied" cùng các vị khách đặc biệt là Williams, Solange Knowles, và [[Mo'Nique]]. Sau buổi diễn, Knowles đã giới thiệu màn trình diễn tiếp theo là ca khúc "[[Like This (bài hát của Kelly Rowland)|Like This]]" của Rowland và [[Eve (rapper)|Eve]].<ref>{{chú thích báo |title=Hudson, Beyonce, T.I. Among BET Winners |url=http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2007/06/26/AR2007062601233.html?tid=informbox |work=The Washington Post |date=2007-03-02 |accessdate=2008-01-26 | first=Sandy | last=Cohen}}</ref> Vào ngày 2 tháng 9, 2007, Knowles và nhóm Destiny’s Child đã trình diễn một đoạn trong ca khúc "Survivor" khi thực hiện tour lưu diễn [[The Beyoncé Experience]] tại [[Los Angeles]], hai thành viên còn lại của nhóm đã cùng nhau hát ca khúc “Chúc mừng Sinh nhật” đến cô. Màn trình diễn này sau đó cũng đã xuất hiện trong đĩa DVD mang tên ''[[The Beyoncé Experience Live|The Beyoncé Experience Live!]]'', phát hành vào ngày 20 tháng 11, 2007.<ref>{{chú thích báo |last=Crosley |first=Hillary |title=Billboard Bits: Beyonce, Bob Marley, Bragg/Brad |url=http://www.billboard.com/bbcom/news/article_display.jsp?vnu_content_id=1003646949 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=2007-09-27 |accessdate=2008-05-13}}</ref> Sau đó, vào mùa xuân năm 2008, Rowland đã phát hành lại album của mình với tiêu đề ''[[Ms. Kelly|Ms. Kelly Deluxe]]''. Album có ca khúc ''[[Daylight]]'' cùng nghệ sĩ rap của nhóm [[Gym Class Heroes]], [[Travis McCoy]], đã lọt vào top 20 của UK Singles Chart.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/281/kelly_rolland_fulfilling_her_destiny/ Kelly Rowland interview by Pete Lewis, 'Blues & Soul' May 2008]</ref> Knowles sau đó đã thu âm lại ca khúc của Billy Joel, "Honesty", được công ty của [[Mathew Knowles]]/[[Music World]] phát hành dưới dạng CD tại Nhật Bản vào tháng 6 năm 2008 để kỷ niệm 10 năm thành lập nhóm. Williams sau đó đã phát hành album không thuộc thể loại Gospel đầu tiên của cô là ''[[Unexpected (album của Michelle Williams)|Unexpected]]'',<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/bbcom/news/article_display.jsp?vnu_content_id=1003728950|title=Williams In A Dance Mood On Third Solo Disc|last=Crosley|first=Hillary|date=2008-03-21|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate=2009-02-26}}</ref> vào tháng 10 năm 2008 cùng một số ca khúc mang hương vị [[Euro-dance]] sôi động.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/334/michelle_williams_fulfills_her_destiny/ Michelle Williams: Destiny's OffSpring]. ''Blues & Soul''. September 2008.</ref> Một tháng sau đó, Knowles cũng đã phát hành album phòng thu thứ ba của mình mang tên ''[[I Am... Sasha Fierce|I Am… Sasha Fierce]]''. Vào mùa hè 2009, Williams đã lập nên lịch sử khi trở thành [[người da màu]] đầu tiên thủ vai [[Roxie Hart]] trong vở nhạc kịch ''[[Chicago (nhạc kịch)|Chicago]]'' trên sân khấu [[West End của Luân Đôn|West End]] của London.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/428/michelle_williams_heart_to_heart/ Michelle Williams: Heart to Heart]. ''Blues & Soul''. July 2009.</ref> Vào tháng 6 2010, Rowland đã phát hành đĩa đơn "[[Commander (bài hát)|Commander]]", trích từ album sắp phát hành của cô là ''[[Here I Am (album của Kelly Rowland)|Here I Am]]''.<ref>[http://www.bluesandsoul.com/feature/546/kelly_rowland_fulfilling_destiny/ Kelly Rowland: Fulfilling Destiny]. ''Blues & Soul''. June 2010.</ref> Beyoncé sau đó cũng đã phát hành đĩa đơn "[[Run the World (Girls)]]" từ album thứ tư của cô là ''[[4 (album của Beyoncé Knowles)|4]]'', vào tháng 4 2011.
===2012-nay: Tái hợp với album thứ sáu và thứ bảy ===
Dòng 115:
{{Listen|filename=Beyonce Dangerously in Love, live.ogg|title="Destiny's Child - "Dangerously In Love" (Trực tiếp tại Atlanta)"|description=Trích đoạn ca khúc "Dangerously In Love", được trình bày trực tiếp tại Atlanta. Đây là một trong những ca khúc thành viên Beyoncé Knowles đảm nhiệm vai trò hát chính.}}
Destiny's Child thường ghi âm những ca khúc [[Rhythm and blues|R&B]] với những phong cách gồm [[urban]], [[
''Survivor'' gồm những chủ đề mà công chúng xem như là việc ám chỉ về xung đột nội bộ của nhóm. Ca khúc dẫn đầu, "[[Survivor (bài hát của Destiny's Child)|Survivor]]", chính là chủ đề của toàn bộ album,<ref name="DunnDate"/> nổi bật với ca từ "I'm not gonna blast you on the radio ... I'm not gonna lie on you or your family ... I'm not gonna hate you in the magazine" (Tạm dịch: "Tôi sẽ không công kích bạn trên sóng phát thanh ... Tôi sẽ không nói dối về bạn và gia đình bạn ... Tôi sẽ không ghét bạn trên tờ tạp chí ...) khiến LaTavia và LeToya đâm đơn kiện nhóm nhạc; lời bài hát đã bị coi là một trong những vi phạm thỏa thuận của họ tại tòa án.<ref name="Kaufman"/> Trong một buổi phòng vấn, Knowles đã bình luận: "Lời nhạc của bài hát 'Survivor' chính là câu chuyện của Destiny's Child, bởi vì chúng tôi đã trải qua rất nhiều thứ, ... Chúng tôi đã vượt qua sự khó khăn với các thành viên ... Bất cứ những điều phức tạp mà chúng tôi có trong thời gian 10 năm qua đã giúp chúng tôi gần nhau, xiết chặt bên nhau và mạnh mẽ hơn."<ref name="DunnDate"/> Một ca khúc khác có tên "Fancy", có lời nhạc là "You always tried to compete with me, girl ... find your own identity" (Tạm dịch: "Bạn luôn luôn muốn ganh đua với tôi, cô gái ... Hãy đi tìm chính bản thân mình đi") được nhận định bởi nhà phê bình [[David Browne]] cho tạp chí ''[[Entertainment Weekly]]'', tương như một phản ứng đối với vụ kiện.<ref name="BrowneSurvivor">{{chú thích web|url=http://www.ew.com/ew/article/0,,108583,00.html|title=Survivor (2008): Destiny's Child|last=Browne|first=David|date=2001-05-07|work=Entertainment Weekly|accessdate=2009-02-26}}</ref> Stephen Thomas Erlewine của [[AllMusic|Allmusic]] nhận xét ''Survivor'' là "một đĩa nhạc kiên quyết, bướng bỉnh với mục đích chứng minh rằng Destiny's Child có tài năng nghệ thuật, phần lớn nhờ việc họ đã sống sót qua sự tranh chấp nội bộ ... Bản thu ấy cố trở thành một lời tuyên bố dũng cảm cuối cùng lại gây cảm giác bị ràng buộc và giả tạo."<ref>{{chú thích web|url={{Allmusic|class=album|id=r528778|pure_url=yes}}|title=Survivor: Destiny's Child|last=Erlewine|first=Stephen Thomas|publisher=Allmusic|accessdate=2009-02-26}}</ref> Dù có giành những lời khen tăng đối với những đĩa nhạc của nhóm nhưng sự tham gia quá dày đặc của Knowles trong những dự án đã gây ra những chỉ trích. Knowles viết và sản xuất hầu hết các ca khúc của ''Survivor''.<ref name="DunnDate"/> Browne cho rằng cô đã giúp ''Survivor'' "một album còn non nớt, nhưng không thể tránh khỏi, thể hiện những khó khăn khi nhóm đến tuổi trưởng thành".<ref name="BrowneSurvivor"/>
== Hình ảnh công chúng ==
[[Tập tin:Nobel Peace Prize Concert 2008 Diana Ross1.jpg|nhỏ|Nghệ sĩ R&B [[Diana Ross]], giọng nữ chính của nhóm [[The Supremes]], bị đánh đồng với Beyoncé Knowles. (Hình ảnh: Harry Wad)]]
Destiny's Child đã được đem so sánh với nhóm [[The Supremes]], một nhóm nhạc thập niên 1960, và Knowles đã bị đánh đồng với [[Diana Ross]], giọng nữ chính của The Supremes; Knowles sau đó đã bác bỏ sự so sánh này.<ref name="Anthony"/> Thật trùng hợp là sau đó, cô đã vào vai dựa trên hình mẫu của Ross trong bộ phim ''[[
Sau ''Dangerously in Love'' của Knowles, có những tin đồn lan truyền về sự tan rã có thể xảy ra với Destiny's Child khi mỗi thành viên đã trải nghiệm sự thành công và có những dự án đang được tiếp tục.<ref name="GilSplit">{{chú thích báo |last=Kaufman |first=Gil |title=Destiny's Child Announce Split |url=http://www.mtv.com/news/articles/1503975/20050612/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2005-06-12 |accessdate=2008-05-13}}</ref><ref name="Tanya">{{chú thích báo |last=Edwards |first=Tanya |title=Will 'NSYNC Or Destiny's Child Ever Record Another Album |url=http://www.mtv.com/news/articles/1457698/20020920/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2002-09-23 |accessdate=2008-05-13}}</ref> Người ta đã so sánh với trường hợp của ca sĩ [[Justin Timberlake]], người đã không trở lại nhóm [['N Sync]] vì sự thành công của album đầu tay của anh, ''[[Justified]]''.<ref name="Kaufman"/><ref name="Tanya"/> Rowland đã phản đối tin đồn này và tuyên bố rằng họ sẽ trở lại với nhóm<ref>{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child Back In The Studio, So 'Shut Up!' Kelly Rowland Says |url=http://www.mtv.com/news/articles/1489338/20040709/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=2004-07-09 |accessdate=2008-05-13}}</ref> Họ cho rằng sự tái hợp này là điều được dự định từ trước<ref name="Kaufman"/> và mối quan hệ thân thuộc của họ đã giúp họ gắn kết với nhau.<ref name="MossReunited">{{chú thích báo |last=Moss |first=Corey |title=Destiny's Child: Reunited And It Feels So Good (Part 1) |url=http://www.mtv.com/bands/d/destinys_child/news_feature/041108/ |work=MTV News |accessdate=2008-05-13}}</ref> Margeaux Watson, biên tập viên mỹ thuật của ''Suede'' chia sẻ rằng "ngôi sao này không muốn trở nên thiếu trung thành với những đồng sự cũ", và gọi việc trở lại của Knowles là một "việc từ thiện".<ref name="LolaDate"/> Mẹ của Knowles, Tina, đã viết một quyển sách mang tên ''Destiny's Style: Bootylicious Fashion, Beauty and Lifestyle Secrets From Destiny's Child'', xuất bản năm 2002, miêu tả về việc thời trang đã ảnh hưởng lên sự thành công của Destiny's Child như thế nào.<ref>{{chú thích báo|title=Book Excerpt: Destiny's Style |url=http://abcnews.go.com/GMA/WinterConcert/story?id=125692| work=ABC News|accessdate=2009-10-29}}</ref>
Dòng 178:
| <center>'''1'''
|-
| "[[Independent Women (bài hát)|Independent Women Part I]]"
| <center>'''1'''
| <center>'''1'''
|