Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ella Fitzgerald”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 59 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q1768 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 6:
| Birth_name = Ella Jane Fitzgerald
| Alias = First Lady of Song, Lady Ella
| Born = {{birth date|mf=yes|1917|4|25}}<br /><small>[[Newport News, Virginia|Newport News]], [[Virginia]], [[UnitedHoa StatesKỳ|U.S.]]</small>
|Origin = [[Yonkers, New York]]
| Died = {{death date and age|mf=yes|1996|6|15|1917|4|25}}<br /><small>[[Beverly Hills, California|Beverly Hills]], [[California]], [[UnitedHoa StatesKỳ|U.S.]]</small>
| Genre = [[Swing music|Swing]], [[traditional pop]], [[vocal jazz]]
| Instrument = [[Dương cầm|Piano]]<br />[[Vocals]]
| Occupation = [[Vocalist]]
| Years_active = 1934&ndash;1993
Dòng 16:
| URL = [http://ellafitzgerald.com/ www.EllaFitzgerald.com]
}}
'''Ella Jane Fitzgerald ''' ([[25 tháng 4]], [[1917]] – [[15 tháng 6]], [[1996]]) là nữ ca sĩ nhạc Jazz người Mỹ. Trong sự nghiệp ca hát kéo dài 59 năm, bà đã giành 13 giải [[Giải Grammy|Grammy]], được tổng thống [[Ronald Reagan]] trao tặng Huân chương Nghệ thuật Quốc gia và tổng thống [[George H. W. Bush]] trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống.
 
==Thời trẻ==
 
Ella Fitzgerald sinh ra tại Newport News, [[Virginia]]. Bà là kết quả của cuộc hôn nhân không hôn thú giữa William và Temperance "Tempie" Fitzgerald.<ref name=nicholson>{{chú thích sách | first=Stuart | last=Nicholson | year=1993 | title=Ella Fitzgerald: A Biography of the First Lady of Jazz | publisher=C. Scribner's Sons | location=New York | isbn=0-575-40032-3 }}</ref> Cha mẹ bà chia tay ngay sau khi bà ra đời và mẹ bà chuyển tới Yonkers, [[Thành phố New York|New York]] sống với bạn trai là Joseph Da Silva. Em gái cùng mẹ khác cha của bà, Frances Da Silva, sinh năm 1923.
 
Năm 1932, mẹ bà chết vì một cơn đau tim. Vì cú sốc này, bà học hành sút hẳn và thường xuyên bỏ học. Bà bị cha dượng lạm dụng và được một người dì nhận nuôi.<ref name="query.nytimes.com">Bernstein, Nina. [http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9A02E7DA1539F930A15755C0A960958260&sec=&spon=&pagewanted=2 "Ward of the State;The Gap in Ella Fitzgerald's Life"], ''[[The New York Times]]'', 23 tháng 6, 1996.</ref> Bà từng giữ chân cảnh giới cho một nhà chứa và chạy việc vặt cho những trùm số đề có liên quan đến mafia.<ref name= "rich">{{chú thích báo | url=http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9800E6D81439F93AA25755C0A960958260 |date=1996-06-19 | title=Journal; How High the Moon | author=Frank Rich | publisher=The New York Times | accessdate=2008-04-06}}</ref> Khi nhà chức trách bắt được bà, đầu tiên họ gửi bà tới trại trẻ mồ côi ở Riverdale, Bronx. Sau đó, vì trại trẻ mồ côi quá tải, bà đã được chuyển đến trường giáo dưỡng dành cho nữ ở Hudson, New York. Cuối cùng, bà bỏ trốn và sống lang thang một thời gian.
Dòng 28:
Ngày 21 tháng 11 năm 1934, bà bắt đầu bước vào nghiệp ca hát ở nhà hát Apollo ở Harlem, New York. Sau đó, bà giành cơ hội thử sức trong cuộc thi "Amateur Nights" mà nhà hát này tổ chức. Bà định dự thi bằng một tiết mục khiêu vũ nhưng bị chị em Edwards, một đôi vũ công địa phương, đe doạ nên đã chuyển sang hát. Bà đã đoạt giải nhất với phần thưởng 25 đô-la.<ref name= "cnn">{{chú thích báo| url=http://www.cnn.com/SHOWBIZ/9606/15/fitzgerald.obit/index.html |date=1996-06-15 | title=‘First Lady of Song’ passes peacefully, surrounded by family | author=Jim Moret | publisher=CNN | accessdate=2007-01-30 |archiveurl = http://web.archive.org/web/20061129231320/http://www.cnn.com/SHOWBIZ/9606/15/fitzgerald.obit/index.html <!-- Bot retrieved archive --> |archivedate = 2006-11-29}}</ref>
 
Tháng 1 năm 1935, Ella Fitzgerald có cơ may biểu diễn một tuần với ban nhạc Tiny Bradshaw ở nhà hát Opera Harlem. Tại đây, bà gặp tay trống thủ lĩnh ban nhạc Chick Webb. Webb đã thuê Charlie Linton làm ca sĩ trong ban và không muốn nhận Ella vì bà "chậm chạp và lôi thôi, một viên kim cương thô".<ref name= "nyobit">{{chú thích báo | url=http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9A00E4DC1E39F935A25755C0A960958260 |date=1996-06-16 | title=Ella Fitzgerald, the Voice of Jazz, Dies at 79 | author=Stephen Holden | publisher=The New York Times | accessdate=2008-04-06}}</ref> Webb cho bà một cơ hội để thử nghiệm với ban nhạc của ông khi họ chơi cho một buổi khiêu vũ ở đại học [[Đại học Yale|Yale]].
 
Đến năm 1935, bà bắt đầu hát thường xuyên cùng ban nhạc của Webb ở Harlem's Savoy Ballroom. Cùng với họ, bà đã thu âm nhiều bài hát được yêu thích như "Love and Kisses" and "(If You Can't Sing It) You'll Have to Swing It (Mr. Paganini)". Nhưng phải đến năm 1938, nhờ một bài hát trẻ trung tên là "A-Tisket, A-Tasket" do bà đồng sáng tác, bà mới được đông đảo công chúng biết tới. Chick Webb qua đời ngày 16 tháng 6 năm 1939, và ban nhạc của ông đổi tên thành "Ella Fitzgerald and her Famous Orchestra" do Ella làm thủ lĩnh. Năm 1942, bà tách khỏi ban nhạc để bắt đầu sự nghiệp biểu diễn độc lập. Ký hợp đồng với hãng Decca, bà đã có rất nhiều bài được yêu thích rộng rãi khi thu âm chung với những nghệ sĩ tiếng tăm như the Ink Spots, Louis Jordan, the Delta Rhythm Boys.
 
Nhờ có người quản lý là Milt Gabler của Decca, Ella bắt đầu cộng tác với ông bầu nhạc Jazz Norman Granzas, thường xuyên xuất hiện trong những buổi hoà nhạc mang tên Jazz at the Philharmonic (JATP) của ông. Quan hệ của bà với Granz còn được củng cố hơn nữa khi ông trở thành người quản lý của bà. Bản ghi âm năm 1945 mang tên "Flying Home" sau này được báo [[The New York Times|New York Times]] miêu tả như "một trong những bản ghi âm jazz-thanh nhạc có ảnh hưởng nhất của thập kỷ". Bài bebop "Oh, Lady be Good!" (1947) cũng nổi tiếng tương tự và nâng bà lên vị trí những ca sĩ jazz hàng đầu.
 
Ella tiếp tục biểu diễn trong những buổi hoà nhạc JATP của Granz cho đến năm 1955. Bà rời bỏ Granz và hãng Decca, thành lập hãng thu âm Verve Records. Sau này, bà nói về thời kỳ này như một bước ngoặt mang tính chiến lược. Album "Ella Fitzgerald Sings the Cole Porter Songbook", phát hành năm 1956, là album đầu tiên trong số 8 album thuộc loạt Songbook mà Ella sẽ thu âm cho Verve từ năm 1956 đến 1964. Loạt album Songbook này được các nhà phê bình đánh giá cao và rất thành công về mặt thương mại. Đây cũng chính là đóng góp nổi bật nhất của bà cho văn hoá Mỹ.
 
Verve Records đã được bán cho hãng [[Metro-Goldwyn-Mayer|MGM]] vào năm 1963 với giá 3 triệu USD. Năm 1967, MGM thất bại trong việc gia hạn hợp đồng với Ella. Trong 5 năm tiếp theo, bà chuyển qua chuyển lại trong phạm vi 3 hãng thu âm là Atlantic, Capitol và Reprise. Với Capitol, bà ghi âm album thánh ca "Brighten the Corner", "Ella Fitzgerald's Christmas"- album gồm những bài hát mừng Giáng sinh truyền thống, "Misty Blue"- album nhạc đồng quê mang âm hưởng miền Tây, và "30 by Ella".
 
Năm 1972, thành công bất ngờ của album "Jazz at Santa Monica Civic '72" giúp Granz thành lập hãng thu âm Pablo Records, hãng thu âm riêng đầu tiên của ông kể từ khi bán Verve. Ella thực hiện khoảng 20 album cho hãng này. Album thu âm trực tiếp "Ella in London" năm 1974 với Tommy Flanagan (piano), Joe Pass (guitar), Keter Betts (bass) và Bobby Durham (trống) là một trong những album hay nhất của bà. Gặp nhiều vấn đề về sức khoẻ, Ella Fitzgerald thực hiện những bản thu cuối cùng vào năm 1991. Đến năm 1993, bà biểu diễn trước công chúng lần cuối. Cùng năm đó, bà thành lập quỹ từ thiện mang tên mình để quyên góp sách giúp đỡ những trẻ em có nguy cơ cao và hỗ trợ những người gặp hoàn cảnh khó khăn.
Dòng 93:
*Pied Piper Award
*[[George and Ira Gershwin]] Award for Outstanding Achievement
*Honorary doctorates from [[Đại học Harvard|Harvard University]], [[Đại học Yale|Yale University]], [[Dartmouth College|Dartmouth]], [[University of Maryland Eastern Shore]], [[Howard University]] and [[Princeton University|Princeton]]
*''[[VH1]]'s 100 Greatest Women in Rock & Roll'' rank #13 (1999 – posthumous)
 
====[[Giải Grammy]]====
 
Fitzgerald won fourteen [[Giải Grammy|Grammy]] awards, including one for [[Grammy Lifetime Achievement Award|Lifetime Achievement]] in 1967.
 
'''[[Grammy Award for Best Jazz Performance, Soloist]]''':