Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Heraclitus”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 71 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q41155 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{Infobox Philosopher
|region = [[Triết học Tây phương|Triết học phương Tây]]
|era = [[Triết học Cổ đại]]
|color = #B0C4DE
Dòng 8:
|birth = ca. 535 Trước công nguyên
|death = 475 Trước công nguyên
|main_interests = [[Siêu hình học]], [[Nhận thức luận]], [[Luân lý học|Đạo đức học]], [[Chính trị]]
|influenced = [[Parmenides]], [[Platon|Plato]], [[Aristoteles|Aristotle]], [[Georg Wilhelm Friedrich Hegel|Hegel]], [[Friedrich Nietzsche|Nietzsche]], [[Martin Heidegger|Heidegger]], [[Alfred North Whitehead|Whitehead]], [[Karl Popper]], và nhiều người khác
|notable_ideas = [[Logos (triết học)|Logos]], [[Dòng chảy (triết học)|dòng chảy]]
|school_tradition = Tư tưởng của ông không theo một trường phái nào trước đó, và hậu nhân đã gọi nó là "'''trường phái Heraclitus'''".}}
'''Heraclitus''' ([[tiếng Hy Lạp]]: ''Ἡράκλειτος'' - Herákleitos, phiên âm tiếng Việt (từ tiếng Pháp): Hêraclit (''Héraclite''); khoảng 535 [[Công Nguyên|TCN]] – 475 [[Công Nguyên|TCN]]) xuất thân trong một gia đình quý tộc ở [[Ionia]] nhưng ông sống một cuộc đời rất [[nghèo]] khổ và cô độc. Về cơ bản, ông là một [[triết gia|nhà triết học]] [[chủ nghĩa duy vật|duy vật]] và được coi là ông tổ của phép [[biện chứng]]. Những tư tưởng biện chứng của ông rất sâu sắc, tuy vậy cách thức thể hiện lại rất phức tạp và khó hiểu vì vậy ông thường được gọi là là nhà triết học tối nghĩa. Hiện nay, tài liệu của ông chỉ còn khoảng 130 đoạn bàn về [[tự nhiên]].
 
== Tư tưởng duy vật về tự nhiên ==
Trong khi [[Thales]] cho rằng [[bản nguyên]] của thế giới là [[nước]] thì Heraclitus lại cho rằng [[lửa]] là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi vật: “Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa biến thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”. “ Lửa sống nhờ đất chết, [[khí quyển Trái Đất|không khí]] sống nhờ lửa chết, nước sống nhờ không khí chết, đất sống nhờ nước chết”<ref name="LSTHHL">Trích theo: Lịch sử triết học Hi – La, Tủ sách ĐH tổng hợp Hà Nội, 1990, Tập 1, tr. 1.</ref>.
 
Heraclitus cho rằng, [[vũ trụ]] không do ai sáng tạo ra, luôn luôn là lửa, sống động, vĩnh cửu, bùng cháy theo những quy luật của mình: “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái. Không do một thần thánh hay một người nào đó sáng tạo ra nó, nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy, và mức độ của những cái đang lụi tàn”<ref name="LSTHHL"/>.
 
Theo Heraclitus, sự phát sinh ra vũ trụ từ lửa là con “đường đi xuống”, đồng thời cũng là sự “thiếu hụt lửa”. Và, vũ trụ xét về tổng thể là cái đơn nhất nhưng cái đơn nhất đó là tổng thể của sự thống nhất của [[vũ trụ|vạn vật]], trong vũ trụ đơn lẻ này những sự vật hiện tượng nội tại nó tự biến đổi đa dạng, vận động chuyển hóa sang mức độ khác nhau, mà tất cả cơ sở của sự biến đổi ấy là lửa.
 
Theo Heraclitus, “lửa bao quát tất cả và phân xử tất cả”. Hỏa hoạn của vũ trụ cũng đồng thời là [[tòa án]] của vũ trụ. Theo đó, hỏa hoạn vũ trụ không chỉ là một sự kiện vật lý đơn thuần mà còn là một hành vi “[[đạo đức]]”. Bản thân vũ trụ không phải do [[thiên Chúa|chúa trời]] hay một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra mà chính là lửa.
 
Ngọn lửa trong quan niệm của Heraclitus mang tính vật chất là sự so sánh trực quan cảm tính với logos trừu tượng – cái được dùng để chỉ bản chất lôgic – lý tính của tồn tại và quy định trật tự, như là “độ” của mọi quá trình. Do vậy, ngọn lửa mang tính vật chất của Heraclitus là “có lý tính” có liên quan tới logos là “ngọn lửa có lý tính”. Ngọn lửa của Hêraclit thể hiện tính cơ động và tính tích cực của tồn tại, đồng thời cũng thể hiện bản chất ổn định và trật tự bất biến của thế giới, bản chất mang tính vật chất.
Dòng 27:
Nếu như [[Thales]] coi nước là khởi nguyên của [[thế giới]] với tư cách là một [[thực thể]] sinh ra mọi vật thì Heraclitus đã hiểu khởi nguyên theo nghĩa độ cao hơn, coi lửa không chỉ là thực thể sản sinh ra mọi vật, mà còn là khởi tổ thống trị toàn thế giới. Lửa đó sản sinh ra không chỉ các sự vật vật chất, mà cả những hiện tượng [[tinh thần]], kể cả [[linh hồn]] con người.
 
Với quan niệm coi toàn bộ vũ trụ như một ngọn lửa bất diệt, thế giới này là lửa thì ông đã tiếp cận được những quan niệm [[chủ nghĩa duy vật|duy vật]] và nhấn mạnh tính bất diệt và vĩnh viễn của thế giới. Ông đã thể hiện những tư tưởng đầu tiên về sự thống nhất vật chất của thế giới khi coi lửa là bản nguyên của tất thảy mọi vật.
 
Đánh giá quan niệm này của Hêraclit, [[Vladimir Ilyich Lenin|Lênin]] coi đó là “một sự trình bày rất hay những nguyên lý của [[duy vật biện chứng|chủ nghĩa duy vật biện chứng]]”<ref>V.I. Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 371.</ref>.
 
Tuy nhiên, có thể thấy rằng quan niệm duy vật của ông còn rất mộc mạc, thô sơ. Bởi nó xuất phát từ việc ông chỉ dựa vào quan sát thực nghiệm để kết luận, khi quan sát Heraclitus đã nhận thấy vai trò rất to lớn của lửa đối với đời sống của con người và cũng do ảnh hưởng của thần thoại [[Hy Lạp]] (nhưng ông có cách giải thích ngược lại với thần thoại).
Dòng 38:
Dưới con mắt của Heraclitus, mọi sự vật trong thế giới của chúng ta luôn luôn thay đổi, vận động, phát triển không ngừng. Thế giới như một dòng chảy, cứ trôi đi mãi. Từ đó, ông đưa ra luận điểm nổi tiếng: “Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Không có gì thường xuyên [[biến đổi]] như một dòng sông nhưng cũng không có gì [[ổn định]] như dòng sông. Bởi khi nó vận động cũng là khi nó đứng im. Nói cách khác, tính biến đổi của dòng sông không loại trừ sự đứng im, tức là cái mà nhờ đó dòng sông là xác định, ổn định và bất biến.
 
Ở Heraclitus, không những [[sông]] mà cả [[mặt Trời|mặt trời]] cũng thường xuyên và liên tục đổi mới, cũng như dòng sông, ông cho rằng không có gì ổn định và bất biến hơn mặt trời luôn chiếu sáng.
 
Heraclitus đã tiếp cận được với những tư tưởng rất cơ bản của [[biện chứng|phép biện chứng]]. Ông nói: “trong cùng một dòng sông ấy chúng ta lội xuống và không lội xuống, chúng ta có và không có”. Đó chính là những tư tưởng về mối liên hệ phổ biến tất yếu của [[qui luật thống nhất]] và [[đấu tranh]] giữa các mặt đối lập.
 
== Logos ==
không những sông mà cả mặt trời cũng thường xuyên và liên tục đổi mới, cũng như dòng sông, ông cho rằng không có gì ổn định và bất biến hơn [[mặt Trời|mặt trời]] luôn chiếu sáng đưa ra chuẩn mực của mọi sự vật đó là logos. Đó là cái chung phổ biến, tính bền vững một mối liên hệ mang tính xuyên suốt của tiến trình thế giới.
 
Tính [[khách quan]] của logos thể hiện ở chỗ, logos được hiểu như là những quy luật bất biến, vĩnh hằng của vũ trụ, là cái mang tính [[quy luật]], là giới hạn hay độ mà các sự vật đang biến đổi phải tuân theo: “logos là cái vĩnh viễn tồn tại…vạn vật ra đời đều dựa vào logos của nó”. Heraclitus khẳng định logos là quy luật biến đổi phổ biến của vạn vật trong vũ trụ: sự chuyển của [[Lửa]] là đầu tiên thành [[biển]], biển thành [[đất]] và thành gió xoáy...đất lại hóa thành biển và tuân theo logos mà trước kia, biển hóa thành đất đã tuân theo.
Dòng 51:
Còn khi hiểu logos với tư cách là lời nói, học thuyết thì logos trong quan niệm của Heraclitus mang tính [[chủ quan]]. Cái logos nằm ngay trong lời nói, trong công việc, trong hiện tượng cảm nhận. Nó là yếu tố hợp lý [[tồn tại]], là lời nói hợp lý của tự nhiên: “Tuy rằng logos tồn tại vĩnh viễn, ta không hiểu được nó trước lúc nghe thấy nó cũng như lần đầu tiên nghe thấy nó. Nhưng tất cả đều xảy ra theo cái lý ấy và người ta thì giống như những người không biết gì khi phải nói những lời và làm những việc như những lời và việc mà tôi trình bày lúc phân chia mỗi vật theo [[bản chất]] và giải thích theo thực chất của vật ấy. Còn những người khác thì họ không biết cái mà họ làm lúc tỉnh, ý như là họ quên cái mà họ làm trong những [[giấc mơ]]”<ref>Trích theo: Lịch sử triết học Hi – La, Tủ sách ĐH tổng hợp Hà Nội, 1990, Tập 1, tr. 11.</ref>.
 
Khi hiểu logos với nghĩa chủ quan, tức là Heraclitus coi logos là chuẩn mực của mọi hoạt động suy nghĩ của [[loài người|con người]]. Và theo ông, ai tiếp cận được với logos thì người đó càng thông thái.
 
Logos của tâm hồn con người và logos của thế giới sự vật, là một logos được xem xét trên hai phương diện: thế giới nội tâm của con người, tính chủ quan của nó và cấu trúc bên ngoài của các sự vật. Nếu chúng giống nhau và trùng hợp với nhau, nếu logos chủ quan của “người tốt nhât” một cách nào đó là đồng nhất với logos [[khách quan]] của sự vật, thì từ đó suy ra rằng việc [[nhận thức]] logos của thế giới bên ngoài là có thể có được bằng con đường tự nhận thức bằng các lỗ lực của bản thân là cái duy nhất tạo thành phẩm giá cá nhân, công lao cá nhân.
Dòng 70:
Như vậy, theo Heraclitus thì linh hồn mỗi con người đã bao gồm sự thống nhất của hai mặt đối lập – cái ẩm ướt và lửa. Ở người nào càng nhiều yếu tố lửa tức là tâm hồn được khô ráo thì đó là người tốt. Lửa trong tâm hồn là logos của tâm hồn, phần lớn loài người sống theo ý của riêng mình không tuân theo logos vì vậy họ là những người tầm thường.
 
Khi coi linh hồn của con người cũng là cái được sinh ra từ một thực thể [[vật lý học|vật lý]] là lửa và cũng là vạn vật trong vũ trụ, trong nó không có một đặc trưng nào của cái siêu tự nhiên mà chỉ mối quan hệ với các yếu tố vật chất, nó là sản phẩm biến đổi huyền diệu của lửa và do vậy là cái quy định mọi hành vi của thể xác và luôn có khát vọng vượt ra khỏi thể xác.
 
== Chú thích ==