Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng Kế Viêm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến d:q1156062 tại Wikidata (Addbot)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 3:
 
== Tiểu sử ==
'''Hoàng Kế Viêm''' (黃繼炎<ref name="chuhan">[[:s:Việt Nam sử lược/Quyển II/Cận kim thời đại/Chương VIII]]</ref>) tên thật là '''Hoàng Tá Viêm''' (黃佐炎<ref name="chuhan"/>), tự ''Nhật Trường'', hiệu ''Tùng An'', người làng Văn La, tổng Văn Đại, huyện [[Quảng Ninh, Quảng Bình|Quảng Ninh]], tỉnh [[Quảng Bình]]. Ông là con của Hoàng Kim Xán, Bố chánh tỉnh [[Khánh Hòa]]. Sau khi Hoàng Kế Viêm thi đỗ [[cử nhân (định hướng)|cử nhân]] vào năm [[1843]] thời vua [[Minh Mạng]], ông được bổ Tư vụ, hàm Quang Lộc tự khanh.
 
Ông kết duyên với con gái thứ năm của vua Minh Mạng là công chúa Hương La, nhưng chẳng bao lâu thì vợ mất.
Dòng 9:
Đời [[Thiệu Trị]], năm 1846, ông làm Lang trung Bộ Lại. Đến thời [[Tự Đức]] (năm 1850), mẹ mất, ông đang ở quê chịu tang thì được chiếu triệu về kinh, sung chức Án sát tỉnh [[Ninh Bình]] (1852). Năm 1854, ông thăng Bố chính [[Thanh Hóa]], Bố chánh kiêm Tuần phủ [[Hưng Yên]] (1859), Tổng đốc An Tịnh (1863). Suốt thời gian trên, ông có công trị an, mở mang kinh tế, thủy lợi...
 
Năm cuối thập niên 1860, dư đảng của [[Thái Bình Thiên Quốc|Thái Bình Thiên quốc]] là Ngô Côn chạy tràn sang miền Bắc Việt Nam. Đầu tiên, họ xin hàng, sau đem quân đi cướp phá các tỉnh. Quan quân đánh mãi không được mà còn mất nhiều binh tướng, buộc triều đình nhà Nguyễn phải nhờ quân [[nhà Thanh]] phối hợp để tiễu trừ. Đến khi Ngô Côn bị giết, các dư đảng là: Hoàng Sùng Anh (hiệu Cờ vàng), [[Lưu Vĩnh Phúc]] (hiệu Cờ đen), Bàn văn Nhị-Lương văn Lợi (hiệu Cờ trắng); vẫn thường quấy nhiễu ở mạn [[Tuyên Quang]], [[Thái Nguyên]], làm quan quân nhà Nguyễn hết sức vất vả.
 
Đến khi đảng cướp người Tàu là Tô Tứ nổi lên, cướp thành [[Lạng Sơn]], bắt giết Tổng thống quân vụ [[Bắc Kỳ]] là Đoàn Thọ, triều đình Huế bèn phái Hoàng kế Viêm ra làm Lạng-Bình-Ninh-Thái Thống đốc quân vụ đại thần (1870), để hiệp với lực lượng của Tán tương [[Tôn Thất Thuyết]] cùng lo việc đánh dẹp.
Dòng 17:
Vì đất Bắc Kỳ luôn có loạn, năm [[Canh Thìn]] (1880) triều đình đặt ra Lạng Giang đạo và Đoan Hùng đạo, rồi sai hai viên Tĩnh biên phó sứ là Trương Quang Đản đóng ở Lạng Giang và Nguyễn Hữu Độ đóng ở Đoan Hùng. Phong cho Hoàng Kế Viêm là Tĩnh biên sứ, kiêm cả hai đạo.
 
Khi quân [[Pháp]] xâm chiếm [[Tên gọi Việt Nam#Đại Nam|Đại Nam]], Hoàng Kế Viêm đứng về phe chủ chiến. Năm [[1873]], Đại úy hải quân [[Pháp]] [[Francis Garnier]] đem quân theo [[sông Hồng]] lên chiếm [[hoàng thành Thăng Long|thành Hà Nội]] và sửa soạn đánh các tỉnh khác ở [[đồng bằng sông Hồng]]. Hoàng Kế Viêm liền được cử làm Tiết chế Bắc Kỳ quân vụ (chức vụ quân sự cao cấp nhất tại Bắc Kỳ) để đôn đốc các nơi lo việc chống ngăn.
 
Ngày [[21 tháng 11]] [[âm lịch]] năm đó, ông và Lưu Vĩnh Phúc cùng tổ chức mai phục và đã giết chết được F.Garnier tại [[Cầu Giấy|Ô Cầu Giấy]]<ref>Ngày F. Garnier chết ghi theo sách ''Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam (tập 4), Nxb Trẻ, 2007, tr.160. Có sách ghi ngày 22 tháng 11 năm 1873.</ref>.
 
Năm [[1883]], đến lượt Đại tá hải quân Pháp [[Henri Rivière]] đánh và chiếm được thành Hà Nội, song cũng lại bị quân của Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc giết chết tại Ô Cầu Giấy ngày [[19 tháng 5]] năm 1883.
 
Năm 1884, triều đình ký [[Hòa ước Giáp Thân 1884|Hòa ước Giáp Thân (1884)]] với Pháp. Sau đó, vua [[Kiến Phúc]] đã ra lệnh cho Hoàng Kế Viêm lúc đó đang đóng ở [[Sơn Tây (tỉnh Việt Nam)|Sơn Tây]] rút quân về Huế, nhưng ông không tuân lệnh, vẫn ở lại phối hợp với quân Thanh đánh Pháp. Mãi đến khi Sơn Tây và [[Hưng Hóa (định hướng)|Hưng Hóa]] thất thủ, ông mới chịu về Huế, nhưng cương quyết không hợp tác với phe chủ hòa.
 
Năm 1884, ông được phong làm Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật viên Đại thần. Chẳng bao lâu ông xin về trí sĩ nhưng không được, mãi đến đời vua [[Thành Thái]], năm [[1889]], ông mới được nghỉ hưu, về quê sống đến khi mất (1909), thọ 89 tuổi.
Dòng 46:
Bàn luận về đôi câu này PGS. TS. Đỗ Bang viết: ''Sau ngày kinh đô thất thủ, phe thân Pháp và tay sai nắm quyền, các vị này thất thế bị rơi vào thế đối lập chống lại triều đình...Danh dự của các ông bị bôi nhọ, xuyên tạc ngay tại Huế...bia miệng độc ác và nghịch lý nhất là khi đem sự nghiệp của các ông ra làm điều giễu cợt...''<ref>''[[Nguyễn Văn Tường]], cuộc đời và lời giải'', PGS. TS. Đỗ Bang chủ biên, Nxb VHTT, 2007, tr. 12.</ref>.
 
Tuy Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đã từng gắn bó với nhau trong nhiều trận chiến, nhưng sự kết hợp của hai ông có đôi khi không được tốt, mà trận [[Trận Sơn Tây (1883)|Pháp đánh thành Sơn Tây]] là một ví dụ. Sau trận này, GS. [[Trần Văn Giàu]] có lời phê rằng:
:''Hoàng Tá Viêm đóng đại quân ở Vân Chủng, tiếng là để làm thế ỷ đốc cho Lưu Vĩnh Phúc, mà tới việc thì chẳng đánh chác gì cả và không tiếp viện cho Lưu. Khi Lưu lui quân về [[Hưng Hóa (định hướng)|Hưng Hóa]], Hoàng Tá Viêm cũng đưa quân về đóng ở Thục Luyện ([[Phú Thọ]])''<ref>Trần Văn Giàu, ''Tổng tập'' (phần I, tr. 370). Xem chi tiết ở trang [[Trận Sơn Tây (1883)|Pháp đánh thành Sơn Tây]] và trận [[Trận Hưng Hóa (1884)|Pháp đánh thành Hưng Hóa]].</ref>.
== Thơ tưởng niệm ==
Khi ông mất, nhà soạn tuồng [[Đào Tấn]] có bài thơ tưởng niệm như sau: