Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hán Triệu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q1574107 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{Thập lục quốc}}
'''Hán Triệu''' ([[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]] giản thể: 汉赵, phồn thể 漢趙, [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: Hànzhào) [[304]]-[[329]] là một tiểu quốc trong thời kỳ [[Ngũ Hồ thập lục quốc]] vào cuối thời kỳ [[nhà Tấn|nhà Đông Tấn]] (265-420). Nước này có hai tên gọi, là '''''Hán''''' (漢) được [[Lưu Uyên (Hán Triệu)|Lưu Uyên]] (劉淵) tuyên bố năm [[304]] và [[Lưu Diệu]] (劉曜) đổi thành '''''Triệu''''' (趙) năm [[319]], sử sách gọi là '''Tiền Triệu''' (前趙) để phân biệt với [[Hậu Triệu]] (後趙). (Lý do gọi là Tiền Triệu là khi đó một viên tướng có thế lực là [[Thạch Lặc]] (石勒) đã tách ra để thành lập nhà nước riêng của mình năm [[319]], ông này cũng đặt tên gọi cho quốc gia của mình là Triệu, và vì thế nhà nước của Thạch Lặc được gọi là Hậu Triệu.
 
== Tên gọi ==
Do cả hai quốc gia này (Hán của Lưu Uyên và Triệu của Lưu Diệu) đều được những người [[Hung Nô]] đã [[Hán hóa]] một phần, thuộc dòng [[lưu|họ Lưu]] cai trị, nên một số học giả Trung Quốc thường kết hợp cả hai nhà nước này thành một nhà nước duy nhất là Hán Triệu. Nhiều văn bản phương Tây coi đây là hai nhà nước riêng biệt; trong khi những văn bản khác gọi nước Hán này là '''''Bắc Hán''''' (北漢), một tên gọi hiện nay được dùng để chỉ Nhà nước [[Bắc Hán]] ([[951]]-[[979]]) trong thời kỳ [[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ đại Thập quốc]]. Tuy nhiên, việc coi đây như là hai nhà nước tách biệt cần được coi là sai lầm hoàn toàn, bởi vì khi Lưu Diệu đổi tên từ Hán thành Triệu năm 319, ông coi nhà nước của mình như là sự tiếp nối từ thời kỳ mà Lưu Uyên lập ra nó năm 304; mặc dù ông không công nhận mối liên hệ với [[nhà Hán]] trước đó và tuyên bố tổ tiên là từ một ''[[thiền vu]]'' vĩ đại của người Hung Nô là [[Mặc Đốn thiền vu|Mặc Đốn]] (冒顿).
 
== Hình thành ==
Vào thập niên [[280]], một lượng lớn (khoảng 400.000) người [[Hung Nô]] chăn nuôi gia súc sinh sống tại khu vực [[Sa mạc Ordos]] (Ngạc Nhĩ Đa Tư) và Tịnh Châu (并州), đơn vị hành chính bao gồm các khu vực ngày nay của toàn bộ tỉnh [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]], tây nam [[Nội Mông|Nội Mông Cổ]] và đông [[Thiểm Tây]], sau khi [[Tào Tháo]] dời họ tới đây và chia họ ra thành "ngũ bộ" (五部). Những người Hung Nô này dường như cuối cùng đã thay đổi cách sống du canh du cư trên thảo nguyên sang việc chăn nuôi gia súc và ở một mức độ nhất định là làm nông nghiệp.
 
Sự [[Hán hóa]] là rõ ràng, đặc biệt trong tầng lớp quý tộc; [[Lưu Uyên (Hán Triệu)|Lưu Uyên]], thủ lĩnh cha truyền con nối của "Tả bộ" (左部) đã được học hành tại Lạc Dương, Kinh đô nhà Tấn, và rất giỏi văn học, lịch sử, chiến lược và chiến thuật quân sự Trung Hoa - sự tinh thông của một người hoàn hảo theo ý nghĩa kinh điển. Người ta còn cho rằng nhà Tấn đã có ý định giao cho Lưu Uyên làm chỉ huy lực lượng đi chinh phục các tàn dư nhà [[Đông Ngô]]; nhưng sau đó đã không dùng do ông là người Hung Nô.
 
Tuy nhiên, trong số các thủ lĩnh của người [[Hung Nô]], bao gồm cả Lưu Uyên, ý nghĩ về sự tách rời ra khỏi [[Trung Quốc]] luôn luôn được ghi nhớ. Phần lớn những người chăn nuôi gia súc vẫn giữ được các kỹ năng cưỡi ngựa và khả năng đánh trận. Sự bất mãn chống lại nhà Tấn và vị trí thấp kém của họ luôn nhắc nhở họ càng tìm kiếm một quốc gia tự trị của người Hung Nô. Điều này được thể hiện trong câu nói của một trong số các thủ lĩnh "kể từ khi [[nhà Hán]] sụp đổ, nhà Ngụy và nhà Tấn đã nối tiếp nhau. Mặc dù Thiền vu của chúng ta [Hung Nô] đã có danh phận cha truyền con nối, nhưng không có một chỗ đứng trên lãnh thổ có chủ quyền".
Dòng 16:
Sau đó Lưu Uyên tự xưng "Hán Vương", một tước hiệu đã được [[Hán Cao Tổ|Lưu Bang]] (người sáng lập ra [[nhà Hán]]) dùng hàng thế kỷ trước đó - một sự chấp nhận có tính toán về nhà Hán đã sụp đổ từ trước đó rất lâu, dựa trên các cuộc hôn nhân hỗn hợp thời kỳ đầu của các ''thiền vu'' Hung Nô và các công chúa nhà Hán, để tranh thủ lực lượng tấn công những kẻ tiếm ngôi (nhà Ngụy và nhà Tấn). Lưu Uyên hy vọng là địa vị pháp lý chính thống như vậy sẽ giúp ông có được sự ủng hộ của các quý tộc Trung Hoa. Các động cơ chính trị của ông cũng góp phần giải thích việc chấp nhận và áp dụng hệ tư tưởng-chính trị của đẳng cấp quý tộc Trung Hoa.
 
== Diệt [[Nhà Tấn|Tây Tấn]] ==
Tuy nhiên, sự tuyên bố như vậy vẫn chỉ là danh nghĩa - các cố gắng trận mạc của Lưu Uyên cuối cùng đã vượt quá kế hoạch chính thống ban đầu của ông. Nhà nước Hán của ông đã thu được sự ủng hộ của một số thủ lĩnh các bộ lạc phi Hán như [[người Tiên Ti]] (鲜卑) và [[người Đê]] (氐) và một số lực lượng lục lâm thảo khấu, bao gồm cả lực lượng của cựu [[nô lệ]] [[Thạch Lặc]] [[yết|người Yết]] (羯). Tuy nhiên, Bộ lạc [[Thác Bạt]] (拓拔) láng giềng (là những người Tiên Ti du canh du cư hùng mạnh tại Nội Mông Cổ ngày nay và miền Bắc Sơn Tây), dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh của họ là [[Thác Bạt Y Lư]] (拓拔猗盧) đã xâm phạm vào khu vực sinh sống của người Hung Nô của Nhà nước Hán mới này. Một nhà nước Hung Nô hùng mạnh có thể là vật cản trở hy vọng của người Thác Bạt trong việc di cư vào khu vực này.
 
Về một phía, người Thác Bạt có được sự giúp đỡ của nhà Tấn tại khu vực Bình để phản công chống lại nhà nước Hán. Ở bên kia là kỵ binh Hung Nô, rất thành công trong việc cướp bóc mọi nơi, nhưng đã thất bại trong việc chiếm thành Tấn Dương (晉陽 - thành phố [[Thái Nguyên, (TrungSơn Quốc)Tây|Thái Nguyên]], thủ phủ tỉnh Sơn Tây ngày nay), thủ phủ khu vực Bính, mặc dù tướng giữ thành [[Tư Mã Đằng]] đã bỏ chạy vào khu vực [[Bình nguyên Hoa Bắc|Đồng bằng Hoa Bắc]] và để lại một sự hỗn loạn. Tướng giữ thành mới là [[Lưu Côn]], đã chấn chỉnh lại việc giữ thành và lợi dụng mâu thuẫn giữ người Thác Bạt và Hung Nô để kiếm lợi. Lòng trung thành của người Thác Bạt đã được tưởng thưởng - Năm địa khu đã được thưởng cho Thác Bạt Ỷ Lư vào năm [[310]] và ông cũng được phong vương tại đất Đại. Khu vực xung quanh Tấn Dương còn nằm trong tay nhà Tấn cho đến tận khi Thác Bạt Ỷ Lư chết năm [[316]] và bị hạ sau một cuộc phản công thảm khốc. Lưu Côn bỏ chạy nhưng sau đó bị thủ lĩnh của người Tiên Ti [[Đoàn Thất Đạn]] sát hại.
 
Năm 310, Lưu Uyên chết, Lưu Thông lên thay, tiếp tục tấn công Tây Tấn. Năm [[311]], quân Hung Nô đánh bại quân nhà Tấn trên chiến trường và từ mọi ngả kéo về kinh đô [[Lạc Dương]]. Các mãnh tướng Thạch Lặc, Lưu Diệu, Hô Diên Yến đánh hạ được Lạc Dương, giết 3 vạn quân Tấn, bắt sống [[Tấn Hoài Đế]].
Dòng 43:
| Hán Cao Tổ (漢高祖)
| Quang Văn (光文),
| [[Lưu Uyên (Hán Triệu)|Lưu Uyên]] (劉淵)
| 304-310
|
Dòng 82:
| Không
| Không
| [[Lưu Hi|Lưu Hy]] (劉熙)
| 329
| Không