Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Biểu Chánh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q6728143 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 8:
| birthplace = [[Gò Công]] (nay thuộc [[Tiền Giang]], [[Việt Nam]])
| deathdate = [[1958]], thọ 74 tuổi
| deathplace = [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]
| realname =
| penname =
Dòng 31:
| footnotes =
}}
'''Hồ Biểu Chánh''' ([[1884]]–[[1958]]), tên thật là '''Hồ Văn Trung''', tự '''Biểu Chánh''', hiệu '''Thứ Tiên'''; là một [[nhà văn]] tiên phong của [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]] ở đầu [[thế kỷ 20]].
==Tiểu sử==
Ông sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày [[1 tháng 10]] năm [[1885]]) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh [[Tiền Giang]]).
 
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học [[chữ Hán|chữ Nho]], sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở [[Mỹ Tho]] và [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]].
 
Năm [[1905]], sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ ([[1936]]), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ.
 
[[Tháng tám|Tháng 8]] năm [[1941]], sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt.
 
Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm [[1946]], thực dân Pháp lập "[[Cộng hòa tự trị Nam Kỳ|Nam Kỳ Quốc]]", ông được mời làm cố vấn cho chính phủ [[Nguyễn Văn Thinh]]. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương.
 
Ông mất ngày [[4 tháng 9]] năm [[1958]] tại Phú Nhuận, [[Gia Định]]; thọ 74 tuổi.
Dòng 52:
Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lại hơn 100 tác phẩm gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bản dịch văn học cổ điển Trung Quốc như ''Tình sử'', ''Kim cổ kỳ quan''... đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền [[văn học Việt Nam]] hiện đại.
 
Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học [[quốc ngữ|chữ quốc ngữ]], cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là rất Nam Bộ, từ giọng văn đến miêu tả con người. Ông có phóng tác một số tiểu thuyết Pháp.
 
Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam Bộ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.