Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 22 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q609474 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
[[Tập tin:Joint Chiefs of Staff seal.svg|nhỏ|phải|250px|Biểu tượng của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ]]
 
'''Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ''' ([[tiếng Anh]]: ''Joint Chiefs of Staff'', viết tắt là '''JCS''') là một cơ quan có trách nhiệm tham mưu cho chính phủ dân sự [[Hoa Kỳ]] về các vấn đề quân sự và việc lãnh đạo [[Quân đội Hoa Kỳ]]. Cơ quan này gồm một [[ChủTổng tịch Hội đồng Thamtham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ|Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân]] (''Chairman of the Joint Chiefs of Staff''), một Phó Chủ tịch Hội đồng, hợp cùng 5 lãnh đạo cao nhất của 4 nhánh quân chủng và Văn phòng Vệ binh Quốc gia<ref name="armytimes">{{chú thích báo |url=http://www.armytimes.com/news/2012/01/army-air-force-top-guard-officer-joins-joint-chiefs-010412w/ |title=Top Guard officer joins Joint Chiefs of Staff |work=Army Times |date=4 January 1012}}</ref>. Tất cả đều là tướng lĩnh quân sự cao cấp, do [[Tổng thống Hoa Kỳ]] bổ nhiệm và được [[Thượng viện Hoa Kỳ]] xác nhận<ref>[http://www.law.cornell.edu/uscode/html/uscode10/usc_sec_10_00000151----000-.html] 10 USC 151. Joint Chiefs of Staff: composition; functions</ref>.
 
Trong [[Khối Thịnh vượng chung Anh]] cũng có một cơ quan có chức năng nhiệm vụ tương tự gọi là ''[[Ủy ban Tham mưu trưởng]]'' (''Chiefs of Staff Committees'' - '''CSC'''). [[Hàn Quốc]] thì gọi cơ quan của mình là [[Bộ Tham mưu hiệp đồng]] (''합동참모본부'', Hapttong Chammo Bonbu)
 
== Lịch sử ==
Khi [[Quân đội Hoa Kỳ]] lớn mạnh về số lượng sau [[Nội chiến Hoa Kỳ]], việc phối hợp các hoạt động quân sự giữa [[Lục quân Hoa Kỳ]] và [[Hải quân Hoa Kỳ]] càng ngày càng trở nên khó khăn. Việc phối hợp chiến đấu của Lục quân và Hải quân thiếu sự hỗ trợ ở cả mặt kế hoạch và tác chiến và bị giới hạn vì thiếu sự đồng thuận trong [[Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ]] tại các chiến dịch ở vùng [[Vùng Caribe|Caribe]].<ref name="Millett">Allan R. Millett, ''Semper Fidelis: The History of the United States Marine Corps'', 1980;pg. 269, para. 2.</ref> Ban hiệp đồng Lục quân và Hải quân được Tổng thống [[Theodore Roosevelt]] thành lập vào năm 1903 gồm có các đại diện của các lãnh đạo quân sự và chỉ huy trưởng cao cấp của cả [[Tổng bộ Hải quân Hoa Kỳ]] và [[Tổng bộ Tham mưu Lục quân Hoa Kỳ]]. Ban hiệp đồng này đóng vai trò như một "ủy ban cố vấn" được thành lập để hoạch định các chiến dịch hổn hợp và giải quyết các vấn đề hiềm khích thông thường giữa hai quân chủng.<ref name="Millett"/>
[[Tập tin:GEN Colin Powell.JPG|nhỏ|[[Đại tướng]] [[Colin Powell]], [[Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ|Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ]] thứ 12]]
Tuy nhiên, Ban hiệp đồng này chỉ hoàn thành một ít nhiệm vụ vì hiến chương của Ban không cho phép Ban bắt buộc việc thi hành các quyết định của mình. Ban cũng thiếu khả năng đưa ra ý kiến của chính mình và vì thế bị giới hạn trong phạm vi chỉ phát biểu về các vấn đề được Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Hải quân đưa ra mà thôi. Kết quả là Ban hiệp đồng có từ ít đến không có ảnh hưởng về cách mà Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến thứ nhất]].
 
Sau Thế chiến thứ nhất, vào năm 1919, hai bộ trưởng đồng ý với nhau tái thành lập và làm tái sinh Ban hiệp đồng. Lần này, thành viên của Ban sẽ bao gồm các Tham mưu trưởng, Phó Tham mưu trưởng, tổng cục trưởng chiến lược của Lục quân Hoa Kỳ và tổng cục trưởng chiến lược của Hải quân Hoa Kỳ. Dưới Ban Liên quân sẽ là một bộ tham mưu được gọi là Ủy ban Kế hoạch Liên quân (''Joint Planning Committee'') phục vụ ban. Cùng với việc có thêm những thành viên mới, Ban Liên quân có thể đưa ra sáng kiến đề nghị của chính mình. Tuy nhiên, Ban Liên quân vẫn không có quyền hợp pháp để bắt buộc việc thi hành các quyết định của ban.
 
Năm 1942, [[Tổng thống Hoa Kỳ]] [[Franklin D. Roosevelt]] và Thủ tướng Vương quốc Anh [[Winston Churchill]] thành lập Bộ tổng tham mưu Kết hợp (''Combined Chiefs of Staff'') sau [[cuộc tấn côngtrận Trân Châu Cảng|vụ tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng]] và Hoa Kỳ tham dự vào [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Đệ nhị Thế chiến]]. Bộ tổng tham mưu Kết hợp phục vụ với vai trò của một bộ phận quân sự tối cao cho sự phối hợp chiến lược giữa Hoa Kỳ và các nước trong [[Khối Thịnh vượng chung Anh]]. Trong khi Vương quốc Anh có Ủy ban Tham mưu trưởng (''Chiefs of Staff Committee'') thì Hoa Kỳ không có một cơ quan quân sự nào tương ứng để cung ứng cho Bộ tổng tham mưu Kết hợp từ phía Hoa Kỳ.
 
Mặc dù Ban Liên quân tồn tại nhưng thẩm quyền của ban ít hửu dụng đối với Bộ tổng tham mưu Kết hợp. Mặc dù vào năm 1935, ban đã xuất bản "Hành động Phối hợp Lục quân và Hải quân", đề xuất một số hướng dẫn cho các chiến dịch phối hợp trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Đệ nhị Thế chiến]] nhưng Ban Liên quân chỉ giữ chút ảnh hưởng đối với cuộc chiến. Theo sau kết thúc Đệ nhị Thế chiến, Ban Liên quân chính thức bị giải thể vào năm 1947.
 
Để lấp đầy nhu cầu cho một nỗ lực phối hợp và cung ứng công việc tham mưu, [[Đô đốc]] [[William D. Leahy]] đề nghị một khái niệm về một "bộ tư lệnh tối cao thống nhất" (''unified high command'') mà sau này có tên là Bộ tổng tham mưu Liên quân (''Joint Chiefs of Staff''). Ngày 20 tháng 7 năm 1942, Đô đốc Leahy trở thành '''[[Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ|Tham mưu trưởng của Tổng tư lệnh Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ]]''' ("''Tổng tư lệnh Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ''" là chức danh quân sự của [[Tổng thống Hoa Kỳ]] theo Điều khoản II, § 2, [[Hiến pháp Hoa Kỳ]]). Ông lập ra một bộ tổng tham mưu để phục vụ dưới quyền của ông.
Dòng 25:
|[[Thủy sư đô đốc]] [[William D. Leahy]]|| [[Hải quân Hoa Kỳ|HQHK]] || [[Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ|Tham mưu trưởng của Tổng tư lệnh Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ]] và<br />Cố vấn Quân sự đặc biệt của Tổng thống Hoa Kỳ
|-
|[[Đại tướng]] Lục quân [[George Marshall|George C. Marshall]]|| [[Lục quân Hoa Kỳ|LQHK]] || [[Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ]]
|-
|Thủy sư đô đốc [[Ernest J. King]] || [[Hải quân Hoa Kỳ|HQHK]] || [[Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ]] và <br />[[Tổng tư lệnh]] [[Hạm đội Hoa Kỳ]]
Dòng 38:
Vị trí Tổng tham mưu phó Liên quân được [[Đạo luật Goldwater-Nichols]] năm 1986 tạo ra để giảm bớt trách nhiệm cho Tổng tham mưu trưởng Liên quân, đặc biệt các vấn đề liên quan đến trang bị.
 
Đại tướng [[Colin Powell|Colin L. Powell]] (1989-93) là [[người Mỹ gốc Phi|người Mỹ gốc châu Phi]] đầu tiên và duy nhất tính đến năm 2009 phục vụ trong Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ. Đại tướng [[Peter Pace]] (Tổng tham mưu phó, 2001-05; Tổng tham mưu trưởng, 2005-07) là quân nhân Thủy quân Lục chiến đầu tiên phục vụ với cả hai vai trò Tổng tham mưu trưởng và Tổng tham mưu phó Liên quân. Chưa có một phụ nữ nào phục trong hội đồng.
 
Mặc dù [[Tuần duyên Hoa Kỳ]] là một trong năm quân chủng của Hoa Kỳ nhưng [[Tư lệnh Tuần duyên Hoa Kỳ]] không phải một thành viên của Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên vị này được hưởng lương phụ trội như các vị trong Bộ tổng tham mưu Liên quân theo Bộ luật Hoa Kỳ số 37, mục 414(a)(5) (4.000 đô la một năm, tính theo năm 2009), và được đặc quyền ưu tiên tại [[Thượng viện Hoa Kỳ]] theo Luật Thượng viện số XXIII(1) và được xem là thành viên ''[[de facto]]'' của Bộ tổng tham mưu Liên quân trong những buổi Tổng thống đọc diễn văn. Không như các Tham mưu trưởng Liên quân là những người không nắm quyền tư lệnh tác chiến quân sự, Tư lệnh Tuần duyên Hoa Kỳ chỉ huy lực lượng của mình. Các sĩ quan Tuần duyên có quyền chính thức được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng hay Tổng tham mưu phó theo Bộ luật Hoa Kỳ số 10 U.S.C. 152(a)(1) & 154(a)(1) theo thứ tự - vì luật chỉ nói chung thuật ngữ "lực lượng vũ trang" hơn là ghi rỏ binh chủng nào được quyền - nhưng chưa có một vị sĩ quan nào trong binh chủng Tuần duyên được bổ nhiệm tính đến năm 2009.
Dòng 44:
== Vai trò và trách nhiệm ==
[[Tập tin:Joint Chiefs of Staff (November 2002).jpg|phải|nhỏ|325px|Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ, tháng 11 năm 2002.]]
Sau khi tái tổ chức quân đội vào năm 1986 theo [[Đạo luật Goldwater-Nichols]], Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ không hiện diện trong các [[bộ tư lệnh tác chiến thống nhất]] của [[Quân đội Hoa Kỳ]]. Trách nhiệm tiến hành các cuộc hành quân tác chiến bắt đầu từ Tổng thống Hoa Kỳ đến [[Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ|Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ]] và trực tiếp đến các tư lệnh của các bộ tư lệnh tác chiến và vì thế hoàn toàn không thông qua Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ.
 
Ngày nay, trách nhiệm chính của Bộ tổng tham mưu Liên quân là làm thế nào để quân đội có thể luôn trong tình trạng sẳn sàng chiến đấu, làm sao cho chắc chắn rằng chính sách, kế hoạch và huấn luyện các binh chủng của họ thật tốt cho các tư lệnh tác chiến của họ. Ngoài ra, Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ cũng đóng vai trò làm cố vấn cho Tổng thống Hoa Kỳ và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ. Trong vai trò chuyên về cố vấn, bộ tổng tham mưu liên quân hình thành nên bộ phận cao cấp thứ hai về chính sách quân sự sau [[Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ]] mà trong đó có Tổng thống và các viên chức khác ngoài Tổng tham mưu trưởng Liên quân.
Dòng 51:
=== Tổng tham mưu trưởng Liên quân ===
[[Tập tin:Jcs orgchart.png|nhỏ|phải|Các tham mưu trưởng Liên quân và bộ tổng tham mưu]]
Theo luật, Tổng tham mưu trưởng Liên quân (''Chairman of the Joint Chiefs of Staff'') là sĩ quan quân sự cao cấp nhất của [[Quân đội Hoa Kỳ]] <ref name="CJCS">[http://www.law.cornell.edu/uscode/html/uscode10/usc_sec_10_00000152----000-.html] 10 USC 152. Chairman: appointment; grade and rank</ref>, và là cố vấn quân sự chính của [[Tổng thống Hoa Kỳ]]. Ông là người chủ tọa các cuộc họp và điều hợp các ý kiến của các tham mưu trưởng bao gồm tổng tham mưu trưởng, tổng tham mưu phó, [[Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ]], [[Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ]], [[Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ]], và [[Tham mưu trưởng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ|Tham mưu trưởng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ]]. Bộ tổng tham mưu Liên quân có văn phòng nằm trong [[Lầu Năm Góc|Ngũ Giác Đài]]. Tổng tham mưu trưởng Liên quân là sĩ quan cao cấp nhất so với các sĩ quan đứng đầu các binh chủng <ref name="head">[http://www.law.cornell.edu/uscode/html/uscode10/usc_sec_10_00000152----000-.html#c] 10 USC 152(c). Chairman: appointment; grade and rank - Grade and Rank.</ref> nhưng không có quyền tư lệnh đối với họ, binh chủng của họ hay các [[bộ tư lệnh tác chiến thống nhất]] <ref name="head"/>. Tất cả các tư lệnh tác chiến đều nhận mệnh lệnh trực tiếp từ [[Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ|Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ]] <ref>[http://www.law.cornell.edu/uscode/html/uscode10/usc_sec_10_00000162----000-.html] 10 USC 162. Combatant commands: assigned forces; chain of command</ref>.
 
[[Tập tin:General Martin E. Dempsey, CJCS, official portrait 2012.jpg|nhỏ|trái|Đại tướng Martin E. Dempsey, [[Lục Quân Hoa Kỳ]], Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ thứ 18.]]
Dòng 63:
=== Tổng tham mưu phó Liên quân ===
[[Tập tin:Admiral James A. Winnefeld, Jr.jpg|nhỏ|phải|Đô đốc James A. Winnefeld, Jr, Tổng tham mưu phó Liên quân thứ 9 (2011–).]]
Chức vụ [[Phó Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ|Tổng tham mưu phó Liên quân Hoa Kỳ]] được lập theo [[Đạo luật Goldwater-Nichols]] năm 1986. Tổng tham mưu phó Liên quân là tướng bốn sao và theo luật là sĩ quan cao cấp đứng thứ hai trong Quân đội Hoa Kỳ (sau Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ). Nếu Tổng tham mưu trưởng vắng mặt, Tổng tham mưu phó Liên quân chủ trì các cuộc họp Bộ tổng tham mưu Liên quân. Ông cũng có thể đóng vai trò này nếu Tổng tham mưu trưởng ra lệnh. Vị trí này không phải là một vị trí thành viên có quyền biểu quyết đầy đủ trong Bộ tổng tham mưu Liên quân cho đến khi có Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng (''National Defense Authorization Act'') năm 1992.<ref>[http://www.jcs.mil/page.aspx?id=7 Vice Chairman of the Joint Chiefs of Staff]: Vice Chairman Responsibilities</ref>
 
Tổng tham mưu phó Liên quân là Đô đốc James A. Winnefeld, Jr.