Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Tranh (Phúc vương)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 22:
| thụy hiệu = Ý Khang
| cha = [[Lê Thánh Tông]]
| mẹ = [[Nguyễn (họ)|Nguyễn]] Tài nhân
| sinh = [[1467]]
| nơi sinh = [[Thăng Long]]
Dòng 31:
 
==Tiểu sử==
Ông là người [[lê (họ)|họ Lê]], tên tục là '''Tranh''', sinh ngày 27 [[tháng ba|tháng 3]] ([[âm lịch]]) năm [[Đinh Hợi]] ([[1467]]) tại kinh đô [[Thăng Long]]. Ông là con thứ 6 của vua [[Lê Thánh Tông]] và Tài nhân [[nguyễn|họ Nguyễn]].
 
Năm Hồng Đức thứ 2 ([[1471]]), nhà vua sai đại thần Lê Huy Cát mang sách vàng và ấn báu phong Hoàng tử Tranh làm '''Phúc Vương''', cho lập phủ ở phường Đông Tác, huyện Vĩnh Xương thuộc [[Thăng Long]].
 
[[Tháng mười hai|Tháng 12]] ([[âm lịch]]) năm [[1486]], Phúc Vương Tranh cưới bà Thục Tuân, con gái Thượng thư [[bộ Binh]] Trịnh Văn Lượng về làm vợ. Năm [[1448]], bà phi ấy mất, Phúc Vương Tranh ở vậy cho tới năm [[1494]], mới cưới người vợ thứ hai là bà Châu Hạp, con gái quan Mậu ân sứ Lưu Cảnh Đức.
 
[[Tháng tám|Tháng 8]] ([[âm lịch]]) năm [[1500]], đời vua [[Lê Hiến Tông]], Phúc Vương Tranh mắc bệnh nặng. Sau khi dặn bảo người trong phủ là "việc tang phải tiết kiệm, không làm lễ [[Phật]] và chỉ theo lễ cổ", thì ông mất, hưởng dương 33 tuổi.
Thương tiếc ông, nhà vua cho bãi triều ba ngày, ban cho tiền làm lễ táng, và ban cho tên thụy là ''Ý Khang''.
 
Theo [[Lê Quý Đôn]], ''"...tính Phúc Vương giản dị, thanh đạm, ôn hòa, đứng đắn, thực thà, ít nói, luôn giữ mình theo lễ nghĩa phép tắc, ham mê sách vở (thích nhất là [[Kinh Dịch]], cũng hiểu được ý nghĩa lớn của sách), giỏi viết chữ thảo, rất hay [[thơ]], phong cách thơ thanh cao hùng tráng, đã từng được vua [[Lê Thánh Tông]] đặc biệt khen ngợi, coi trọng. Người đương thời thường sánh ông với Đông Bình và Hà Gian đời xưa"'' <ref>''Đại Việt thông sử'' (bản dịch, tr. 150). Chú thích: Đông Bình tức Đông Bình vương, con trai của vua [[Hán Quang Vũ Đế|Hán Quang Vũ]] ở [[Trung Quốc]]. Đông Bình ham làm việc thiện, có câu nói nổi tiếng là: "Làm việc thiện là điều vui sướng nhất" (vi thiện tối lạc). Hà Gian tức Hà Gian Hiến vương, tên thật là Đức, con vua [[Hán Cảnh Đế]] ở [[Trung Quốc]]. Ông ham học tập và sưu tầm sách cổ.</ref>.
 
==Khu đền mộ==
Sau khi Phúc Vương Tranh mất, [[tháng mười|tháng 10]] ([[âm lịch]]) năm đó ([[1500]]), người thân đưa ông về an táng tại cánh đồng Hạnh Hoa Khê (tục gọi là xứ Mả Bia) thuộc Tây Mỗ (nay thuộc huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]), là quê mẹ của Phúc Vương Tranh.
Năm [[1944]], [[nhà văn]] [[Trúc Khê]] có tới thăm mộ Phúc Vương Tranh, thì thấy đó là một nấm đất rộng, trên phủ cỏ, ước chừng ba bốn mét đường kính. Ở đầu mộ có dựng một tấm bia đứng trên lưng rùa (lớn bằng tấm bia lớn ở Văn Miếu [[Hà Nội]]), mặt chính hướng về hướng Nam, nhưng vì trải nhiều năm tháng nên đã mòn hết chữ. Cách mộ chừng trăm bước là ngôi đền nhỏ hẹp, sự phụng tự bên trong cũng khá thanh giản. Ngoài ra, trong đền còn có tấm bia ghi sự dựng đền và tu sửa đền <ref>Theo bài viết “Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh” của [[Trúc Khê]], tr. 574-575.</ref>.