Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Majestic (lớp tàu sân bay)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 7 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q2539830 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 48:
|}
 
'''Lớp tàu sân bay ''Majestic''''' bao gồm sáu [[tàu sân bay]] hạng nhẹ được chế tạo cho [[Hải quân Hoàng gia Anh]] vào giai đoạn cuối của [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]]. Do chiến tranh kết thúc, việc chế tạo chúng được tạm ngừng, không có chiếc nào phục vụ cho Hải quân Anh, và chúng chỉ được hoàn tất để bán và phục vụ cùng [[Hải quân Hoàng gia Australia|Australia]], [[Hải quân Hoàng gia Canada|Canada]] và [[Hải quân Ấn Độ|Ấn Độ]].
 
==Thiết kế==
Dòng 56:
 
==Chế tạo và sở hữu==
Sáu chiếc tàu sân bay được chế tạo bởi bốn xưởng đóng tàu: [[Harland and Wolff]], [[HM Dockyard Devonport]], [[Swan Hunter]] và [[Vickers-Armstrongs]]. Việc chế tạo được bắt đầu vào những năm [[1942]] - [[1943]], và chúng được hạ thủy trong những năm [[1944]] và [[1945]]. Nhưng sau khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]] kết thúc, [[Bộ Hải quân Anh]] ra lệnh tạm ngưng nhiều kế hoạch đóng tàu, bao gồm việc trang bị cho sáu chiếc trong lớp ''Majestic''.<ref name=Hobbs5>{{chú thích tạp chí | last=Hobbs | first=Commander David | year=2007 | month=October | title=HMAS ''Melbourne'' (II) - 25 Years On | journal=The Navy | volume=69 | issue=4 | pages=pg 5 | issn=1332-6231}}</ref>
 
''Majestic'' và ''Terrible'' được [[Hải quân Hoàng gia Australia]] mua lại vào [[tháng sáu|tháng 6]] năm [[1947]] với giá chung là 2,75 triệu [[Bảng Australia]], bao gồm dự trữ, nhiên liệu và đạn dược.<ref name=Hobbs5/><ref>{{chú thích sách | last=Donohue | first=Hector | title=From Empire Defence to the Long Haul: post-war defence policy and its impact on naval force structure planning 1945-1955 | series=Papers in Australian Maritime Affairs (No. 1) | year=1996 | month=October | publisher=Sea Power Centre | location=Canberra | page=s 38, 45-47 | isbn=0-642-25907-0 | id={{ISSN|1327-5658}} | oclc = 36817771}}</ref> Vì ''Terrible'' trong tình trạng gần hoàn tất hơn trong số hai chiếc, việc chế tạo được hoàn thành mà không có cải biến nào, và nó được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Australia vào ngày [[16 tháng 12]] năm [[1948]] dưới tên gọi [[HMAS Sydney (R17)|HMAS ''Sydney'' (R17)]].<ref name=Hobbs5/> Công việc trên chiếc ''Majestic'' tiến triển chậm chạp, khi nó được nâng cấp các kỹ thuật và thiết bị mới nhất, bao gồm một [[sàn đáp chéo góc]], [[máy phóng máy bay|máy phóng hơi nước]] và hệ thống [[gương hỗ trợ hạ cánh]].<ref>Donohue, Hector (1996). ''From Empire Defence to the Long Haul'', pg 94</ref> ''Majestic'' được hoàn tất và đưa vào sử dụng cùng Hải quân Australia dưới tên gọi [[HMAS Melbourne (R21)|HMAS ''Melbourne'' (R21)]] vào ngày [[28 tháng 10]] năm [[1955]].<ref name=Hall72-3>{{chú thích sách | last=Hall | first=Timothy | title=HMAS Melbourne | year=1982 | publisher=George Allen & Unwin | location=North Sydney, NSW | page=72–73 | isbn=0-86861-284-7 | oclc = 9753221}}</ref>
 
Sau chiến tranh, [[Hải quân Hoàng gia Canada]] sở hữu chiếc [[HMCS Magnificent (CVL 21)|HMCS ''Magnificent'' (CVL 21)]] (là chiếc duy nhất giữ lại tên ban đầu), và đưa nó ra hoạt động vào ngày [[7 tháng 4]] năm [[1948]]. Đến năm [[1952]], họ lại mua chiếc ''Powerful'', vốn được nâng cấp tương tự như ''Majestic''/''Melbourne''. ''Powerful'' được đổi tên thành [[HMCS Bonaventure (CVL 22)|HMCS ''Bonaventure'' (CVL 22)]], và đưa vào hoạt động ngày [[17 tháng 1]] năm [[1957]] thay thế cho chiếc tàu chị em với nó.
Dòng 71:
[[HMS Leviathan (R97)|HMS ''Leviathan'' (R97)]] được hạ thủy vào năm [[1945]], nhưng không bao giờ được hoàn tất hay hoạt động. Những nồi hơi của nó được tháo dỡ để sửa chữa chiếc [[ARA Veinticinco de Mayo (V-2)|ARA ''Veinticinco de Mayo'']] vào năm [[1968]], và nó bị tháo dỡ vào cuối năm đó.
 
[[HMCS Magnificent (CVL 21)|HMCS ''Magnificent'' (CVL 21)]] được hạ thủy vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[1944]] và đưa vào hoạt động cùng [[Hải quân Hoàng gia Canada]] vào năm [[1948]]. Nó được trả cho Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày [[14 tháng 6]] năm [[1957]], rồi được giữ lại lực lượng dự bị cho đến năm [[1965]], khi nó được bán để tháo dỡ tại Faslane, Scotland.
 
[[HMS Majestic (R77)|HMS ''Majestic'' (R77)]] được hạ thủy vào năm [[1945]], và được bán cho [[Úc|Australia]] vào năm [[1947]]. ''Majestic'' được nâng cấp đáng kể, và là chiếc tàu sân bay thứ ba trên thế giới được chế tạo với một sàn đáp chéo góc và máy phóng hơi nước.<ref>Hobbs, David (2007). ''HMAS Melbourne - 25 Years On'', pg 6</ref> Con tàu được đặt lại tên là [[HMAS Melbourne (R21)|HMAS ''Melbourne'' (R21)]] và được đưa ra hoạt động vào năm [[1955]]. Trong suốt cuộc đời phục vụ, ''Melbourne'' chỉ có những hoạt động thứ yếu không chiến đấu trong các cuộc xung đột trong khu vực, nhưng lại vướng vào hai tai nạn lớn trong thời bình, khi va chạm và làm chìm chiếc HMAS ''Voyager'' vào năm [[1964]] và USS ''Frank E. Evans'' vào năm [[1969]]. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm [[1982]], và được bán sang Trung Quốc để tháo dỡ vào năm [[1985]]. Thay vì tháo dỡ ngay ''Melbourne'', Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã giữ lại nghiên cứu con tàu và sử dụng nó vào việc huấn luyện phi công.
 
[[HMCS Bonaventure (CVL 22)|HMS ''Powerful'' (R95)]] được hạ thủy vào năm [[1945]], và được [[Canada]] mua lại vào năm [[1952]] để được nâng cấp lên tiêu chuẩn tương đương như với chiếc ''Majestic''. Nó được đổi tên thành [[HMCS Bonaventure (CVL 22)|HMCS ''Bonaventure'' (CVL 22)]] và đưa vào phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Canada vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[1957]] để thay thế cho chiếc tàu chị em ''Magnificent'' vốn được hoán đổi với tàu sân bay [[HMS Warrior (R31)|HMCS ''Warrior'']] thuộc lớp ''Colossus'' vào năm [[1948]]. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm [[1970]], và đến năm [[1971]] được bán sang [[Đài Loan]] để tháo dỡ.
 
[[HMS Terrible (R93)|HMS ''Terrible'' (R93)]] được hạ thủy vào năm [[1944]], và được chuyển cho [[Hải quân Hoàng gia Australia]] dưới tên gọi [[HMAS Sydney (R17)|HMAS ''Sydney'' (R17)]] vào năm [[1948]]. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm [[1958]], rồi cho tái hoạt động như một tàu chở quân nhanh vào năm [[1962]]. ''Sydney'' từng tham gia cả trong [[Chiến tranh Triều Tiên]] lẫn [[Chiến tranh Việt Nam]]. Nó ngừng hoạt động lần cuối cùng vào năm [[1973]], và đến năm [[1975]] được bán sang [[Hàn Quốc]] để tháo dỡ.
Dòng 97:
|[[7 tháng 6]] năm [[1945]]
|
|Chưa hoàn tất, tháo dỡ [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1968]]
|-
|[[HMCS Magnificent (CVL 21)|''Magnificent'']]