Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sơn Tây”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Robot: Sửa đổi hướng |
n clean up, replaced: phía Đông → phía đông (2), phía Tây → phía tây (5), phía Nam → phía nam, phía Bắc → phía bắc (2), Tây Bắc → tây bắc, Đông Bắc → đông bắc, Đông Nam → đông nam (2) |
||
Dòng 5:
| AbbrevPinyin = Jìn
| ISOAbbrev = 14
| OriginOfName = 山 sơn - núi <br />西 tây - phía
| AdministrationType = [[Tỉnh (Trung Quốc)|Tỉnh]]
| Capital = [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]]
Dòng 35:
| Website = [http://www.shanxigov.cn www.shanxigov.cn] ([[Tiếng Trung Quốc|Tiếng Trung]])
}}
'''Sơn Tây''' ({{zh-cpw|c=山西|p=Shānxī|w=Shan-hsi}}, {{Audio|zh-Shanxi.ogg|nghe}}; [[bính âm bưu chính]]: ''Shansi'') là một [[tỉnh (Trung Quốc)|tỉnh]] ở [[Hoa Bắc|phía
Tên gọi Sơn Tây có nghĩa là “phía
== Lịch sử ==
Dòng 45:
Theo [[Sử ký Tư Mã Thiên|Sử ký]], khi [[Chu Công Đán]] phụ chính [[Chu Thành vương|Chu Thành Vương]], có một chư hầu là nước Đường nổi loạn, Chu công Đán mang quân tiêu diệt. Sau đó, Chu Thành Vương bèn chính thức phong cho Cơ Ngu làm vua chư hầu nước Đường, gọi là [[Đường Thúc Ngu]]. Đất Đường ở khu vực phía đông [[Hoàng Hà]] và [[sông Phần|Phần Hà]], sau này nước Đường đổi tên thành [[tấn (nước)|nước Tấn]]. Thời kỳ đầu [[Nhà Chu|Tây Chu]], lãnh thổ của [[ân (nước)|nước Ân]] bao gồm một phần đông nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay; [[Hàn (nước Tây Chu)|nước Hàn]] tập trung quanh khu vực Hàn Thành thuộc tỉnh Thiểm Tây và [[Hà Tân, Vận Thành|Hà Tân]] thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay.
[[Tập tin:春秋诸侯分布图(晋国).png|nhỏ|trái|Bản đồ [[tấn (nước)|nước Tấn]] (晋) thời [[Xuân Thu]], phần lớn lãnh thổ thuộc Sơn Tây ngày nay]]
Năm 805 TCN, [[Tấn Mục hầu]] nghe lệnh [[Chu Tuyên vương]], đem quân đánh [[Tây Nhung|tộc Nhung]], năm 802 TCN, ông đánh thắng đất Thiên Mẫu. Thời Xuân Thu, đại bộ phận tỉnh Sơn Tây thuộc về nước Tấn. Đến thời [[Tấn Văn công]], nước Tấn xưng bá [[Trung Nguyên]]. Các kinh đô của Tấn trước sau đều nằm trên địa phận Sơn Tây: Đường (sau gọi là Tấn)<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]],
Thời [[Chiến Quốc]], [[triệu (nước)|nước Triệu]] đặt kinh đô tại Tấn Dương<ref group="chú">nay thuộc Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây</ref>, [[hàn (nước)|nước Hàn]] đặt kinh đô tại Bình Dương<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Lân Phần, tỉnh Sơn Tây</ref>, [[ngụy (nước)|nước Ngụy]] trong thời gian 403 TCN-361 TCN đặt đô thành tại An Ấp<ref group="chú">nay thuộc tây bắc [[Hạ (huyện)|huyện Hạ]], tỉnh Thiểm Tây</ref> Sau trung kỳ Chiến Quốc, kinh đô của Triệu và Ngụy phân biệt di dời đến địa phận Hà Bắc và Hà Nam ngày nay.
Dòng 70:
=== Thời Nguyên, Minh, Thanh ===
[[Tập tin:PingYaoCityWall.jpg|nhỏ|phải|Tường thành [[Bình Dao]], được xây vào năm 1370 thời [[Minh Thái Tổ]] Chu Nguyên Chương]]
Khi [[đế quốc Mông Cổ]] xâm lược Hà
Năm 1368, Minh Thái Tổ [[Minh Thái Tổ|Chu Nguyên Chương]] phái [[Từ Đạt]], [[Thường Ngộ Xuân]] suất lĩnh quân Minh tiến vào Sơn Tây, thiết lập Sơn Tây hành tỉnh. Chu Nguyên Chương sau này phong cho ba nhi tử làm phiên vương, trú trát tại Sơn Tây: [[Chu Vi]] là Tấn vương, trú tại Thái Nguyên; [[Chu Quế]] là Đại vương, trú tại Đại Đồng; [[Chu Mô]] là Thẩm vương, trú tại Lộ An (Trường Trị), xây dựng [[Vạn Lý Trường Thành|Minh Trường Thành]] để phòng bị [[Bắc Nguyên]] xâm lược. Đầu thời Minh, có một lượng lớn di dân từ Sơn Tây đến vùng [[bình nguyên Hoa Bắc]]- vùng mà khi ấy đang vắng bóng người. [[Đại hòe thụ (Hồng Động)|Đại hòe thụ]] ở [[Hồng Động]] trở thành một địa điểm tập hợp nổi tiếng, đến nay cư dân các tỉnh vẫn lưu truyền ngạn ngữ: "Nếu hỏi tổ tiên đến từ xứ nào? Đại hòe thụ ở Hồng Động, Thiểm Tây". Triều Minh sau đó đã thiết lập Sơn Tây thừa tuyên bố chính sứ ti, tiền thân của Sơn Tây ngày nay. Thời Minh, thương nhân Sơn Tây kiểm soát phần lớn việc buôn bán muối và dịch vụ ngân hàng trong cả nước.<ref name=eb4>{{chú thích web|last=Boxer|first=Baruch|title=Shanxi|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/Shanxi/71120/History|publisher=Encyclopædia Britannica|accessdate=2013-01-27}}</ref>
Dòng 105:
Ở các dãy núi, thường thấy một vài loại đất nâu nhạt hoặc đất rừng nâu, các [[đồng cỏ|thảo nguyên]] xuất hiện trên cao độ lớn hơn. Đất [[phù sa]] xuất hiện ở các khu vực trung bộ và nam bộ của Sơn Tây và chủ yếu tạo thành từ đất nâu đá vôi do Phần Hà bồi đắp. Tỉnh Sơn Tây cũng có trầm tích hoàng thổ và đá vôi. Nguồn tài nguyên hữu cơ tự nhiên của Sơn Tây không phải là nhiều, và có độ mặn quá mức.<ref name=eb1>{{chú thích web|author=Baruch Boxer|title=Shanxi|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/Shanxi|publisher=Encyclopædia Britannica,|accessdate=2013-01-28}}</ref>
Sơn Tây nằm ở vùng có vĩ độ trung bình ở nội lục, thuộc vùng [[khí hậu ôn đới]] lục địa gió mùa, bán khô hạn. Do ảnh hưởng từ các nhân tố [[bức xạ Mặt Trời]], hoàn lưu [[gió mùa]] và vị trí địa lý, khí hậu Sơn Tây có đủ bốn mùa phân biệt, mưa nhiệt cùng lúc, ánh nắng đầy đủ, có sự khác biệt khí hậu đáng kể giữa nam và bắc, có sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa [[mùa đông]] và [[mùa hạ|mùa hè]], ngoài ra giữa [[ngày]] và [[đêm]] cũng có sự chênh lệch [[nhiệt độ]] lớn. Nhiệt độ bình quân năm của các địa phương tại Sơn Tây biến đổi từ 4,2-14,2°C,<ref name=stg/> về tổng thể thì tăng dần từ bắc xuống nam, thấp dần từ bồn địa lên vùng núi cao. Nhiệt độ trung bình tại Thái Nguyên vào tháng giêng là −7°C và tăng lên 24 °C trong tháng 7; các số liệu tương ứng tại Đại Đồng là −16°C và 22°C.<ref name=eb1/> Lượng [[giáng thủy]] trung bình năm của các địa phương tại Sơn Tây dao động từ 358-621 [[mM|mm]], thấp dần từ tây bắc đến đông nam, phân bố không đều theo mùa, tương đối tập trung vào mùa hè (từ tháng 6-8), chiếm 60% tổng lượng giáng thủy cả năm. Trong mùa đông, Sơn Tây thường xảy ra [[hạn hán]] do các cơn gió
=== Sinh vật ===
Dòng 246:
[[Tấn kịch]] (晋剧) là một thể loại [[hí khúc]] phổ biến tại Sơn Tây. Loại hình nghệ thuật này được đại chúng hóa trong thời gian cuối thời nhà Thanh, với sự trợ giúp của các thương nhân Sơn Tây-những người mà khi ấy hoạt động trên khắp Trung Quốc. Cũng được gọi là ''Trung lộ bang tử'' (中路梆子), nó là một loại hình ''bang tử''(梆子), một nhóm các loại hình nhạc kịch thường được phân biệt bằng việc sử dụng sinh tiền để tạo ra nhịp và bởi một phong cách hát mạnh mẽ hơn; Tấn kịch cũng được bổ sung bằng ''khúc tử'' (曲子), một thuật ngữ chung để chỉ các loại nhạc kịch du dương hơn ở xa về phía nam. [[Bồ kịch]] (蒲剧), bắt nguồn từ nam bộ Sơn Tây, là một thể loại ''bang tử'' cổ xưa hơn, sử dụng [[âm vực|âm trình]] rất rộng.
[[Tấn thương]] (晋商), tức các thương nhân Sơn Tây đã tạo thành một hiện tượng lịch sử kéo dài trong nhiều thế kỷ từ thời Tống đến thời Thanh, Các thương nhân Sơn Tây có phạm vi hoạt động xa và rộng kéo dài từ [[Trung Á]] đến vùng bờ biển phía
== Du lịch ==
|