Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đạn tự hành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm thể loại, replaced: {{reflist → {{tham khảo, removed underlinked tag using AWB
n chính tả, replaced: dầy → dày (2) using AWB
Dòng 172:
Nếu nhìn về lịch sử đánh nhau trên mặt nước thì trước WW2 các vũ khí đánh nhau chủ yếu là pháo cỡ lớn 3xx-4xxmm, và chống cự lại chúng băng giáp thép dày hơn nửa mét. Trong WW2, Nhật Bản đã gây choang vì thiết kế hạm đội mới có tầu diệt tầu chủ lực là tầu sân bay. Từ đó, Mỹ học theo Nhật và cho đến nay vẫn dùng hạm đội kiểu Nhật Bản, loại hạm đội có tầu sân bay là vũ khí diệt tầu chủ lực. Đương nhiên, máy bay có tầm xa và mang được bom lớn hơn nhiều pháo lắp trên tầu. Đến cuối chiến tranh, khi đã yếu, Nhật Bản đã dùng máy bay có người lái cảm tử như một loại đạn. Nhưng dĩ nhiên máy bay có người lái quá cồng kềnh và không thể có khả năng vận động mạnh mẽ như máy bay tự động. Người ĐỨc đã thử nghiệm dùng đạn hành trình V2 để chống tầu, nhưng đạn này có khả năng vận động kém. Fritz X là loại đạn chống hạm đầu tiên, được Đức đưa ra và đã lập các chiến công lớn như bắn chìm soái hạm Ý. Ruhrstahl X-1 (Fritz X) có thể có động cơ nhỏ hay không có động cơ, nên nó lai giữa [[bom lượn]] và tên lửa, được lái qua sóng radio bởi hệ thống lái Kehl-Straßburg (phát triển bởi Telefunken) <ref>[http://www.wehrmacht-history.com/luftwaffe/missiles/ruhrstahl-x-1-anti-ship-missile.htm Ruhrstahl X-1 Kramer X-1 (Fritz X) Anti-ship Missiles<!-- Bot generated title -->]</ref>, đạn mang đầu chứa 300&nbsp;kg thuốc nổ và có tầm xa 5&nbsp;km, thả từ máy bay, tổng khối lượng phiên bản không động cơ 1362&nbsp;kg, đầu đạn có mũ bảo vệ 130mm hợp kim nhôm. Đức đã dùng nhiều thiết bị điều khiển khách nhau cho nhiều loại đạn tự hành, nhưng do trình độ chung về điệnt ử ngày đó còn quá yếu nên các đạn của họ không được dùng nhiều, chúng dễ bị giải mã lệnh lái, gây nhiễu, cũng như có tính năng ban đầu quá yếu.
 
Sau chiến tranh, Liên Xô đã nỗ lực vượt bậc để đưa đạn tự hành chống hạm cũng như các loại đạn tự hành khác vào ứng dụng thực tế. CHiến lược của Liên Xô là phát triển các tầu sân bay bay tức các máy bay hạng nặng, bắn ra các đạn tự hành tức các máy bay không người lái. Khác với Liên Xô, Mỹ dừng lại ở mức hạm đội máy bay có người lái kiểu Nhật Bản. Loại đạn tự hành chống hạm được sản xuất lớn đầu tiên là KS-1 Kometa <ref>http://www.aviation.ru/Missiles/KS-1.html</ref>, đầu 195x, đây là phiên bản máy bay MiG-15 không người lái, mỗi Tu-16 mang được 2 đạn, đầu đạn nhồi 400&nbsp;kg thuốc, bắn xa 80&nbsp;km, điều khiển bằng radar. Sau này đạn KS-1 được cải tiến nhiều, tăng độ tin cậy, tầm xa, sức công phá, có các phiên bản bắn từ máy bay, xe cơ giới mặt đất và tầu biển. So với MiG-15 nguyên thủy thì đạn đổi sang dùng loại động cơ gọn nhẹ hơn, đổi lấy việc giảm tuổi thọ. Cho đến 197x Liên Xô cho ra loại chiến hạm chuyên dùng đạn tự hành trong vai trò tầu đối kháng diệt tầu chủ lực là Kirov Class (Type 1144.2), ngày nay chiếc Kirov đổi tên là Peter the Great (Piotr Đại Đế), nó đã lên đà hiện đại hóa nhiều lần, chạy bằng năng lượng hạt nhân. Tầu không mang giáp dầydày mà tự vệ bằng hệ thống phòng không nhiều tầng, radar lớn nhất trong số các tầu chiến. Vũ khí tấn công chủ yếu của tầu là các đạn P-700 Granit tầm bắn 700&nbsp;km, đầu nhồi 750&nbsp;kg thuốc, tốc độ tối đa M2,5, đường bay là là cách mặt biển 15 mét, cả đạn nặng 7 tấn. Cho đến nay, tấm bắn của loại đạn này vẫn gần gấp đôi tầm chiến đấu của máy bay trên tầu sân bay hiện tại của Mỹ là F-18 Hornet.
 
Các nước Trung-Ấn và nhiều nước khác đã tìm cách liên doanh-mua kỹ thuật của Nga để phát triển hàng loại các đạn diện hạm hiện đại như Brahmos Ấn Độ. Các đạn này đều trang bị radar hiện đại, đường bay là là mặt biển, phối hợp theo nhóm, tốc độ bay là là M2-M3, có các phiên bản bắn từ máy bay-xe cơ giới-tầu chiến-tầu ngầm. Nhưng cho đến nay không loại đạn nào mạnh như Granit. Hiện tại các nước ngoài Nga đều thỏa mãn với việc sở hữu loại đạn diệt hạm mạnh nhất của họ có tầm bắn khoảng 300&nbsp;km. Riêng Brahmos là loại đạn rất mạnh trong số đó, đạn khởi động bằng động cơ tên lửa, sau đó động cơ khởi tốc được tháo bỏ, đạn tiếp tục tăng tốc bằng động cơ tuốc bin một luồng turbojet, khi đã bay nhanh, động cơ này tăng phần không qua tuốc bin trở thành động cơ lai giữa động cơ tuốc bin và động cơ luồng nén không khí bằng vận tốc ramjet. Brahmos có hệ thống dẫn đường chống tàng hình mạnh-trong khi bản thân nó lại tàng hình mạnh, tên lửa có radar riêng, trong đường bay thấp khi còn xa mục tiêu đạn được dẫn đường bằng radar mẹ từ bệ phóng, một đường may khác là đạn nhớ vị trí mục tiêu, bay thấp dùng dẫn đường quán tính đến gần. Một đường bay khác thừa kế từ thời các P-500 196x là một đạn bay cao chấp nhận để địch nhìn thấy nhưng cũng nhìn đựoc địch, cung cấp dữ liệu cho các đạn khác bay thấp, nay đường bay này rất hiệu quả khi có máy tính. Đạn bay cách mặt nước 10 mét với tốc độ M2,8, tầm bắn 290&nbsp;km. [[Brahmos]] được phát triển từ P-800 Oniks, có cấu hình khí động giống như Granit nhưng nhỏ hơn, đạn nặng 3 tấn mang đầu nhồi 300&nbsp;kg.
Dòng 214:
Để đánh chặn đạn tự hành đạn đạo, người ta hầu như chỉ có thể đánh chúng vào các giai đoạn giữa (giai đoạn quỹ đạo) và giai đoạn cuối (giai đoạn trở lại không khí) của đạn đạn đạo. Ở giai đoạn đầu (giai đoạn phóng lên) thì đạn tự hành đạn đạo đang nằm trên đất địch và do đó rất khó hy vọng đánh được chúng. Các đạn tự hành đạn đạo liên lục địa của Nga hiện nay đều bắt đầu giai đoạn giữa bằng các động tác né tránh, như tung ra nhiều đầu đạn giả khi bắt đầu giai đoạn giữa, nếu là đạn đạn đạo lớn mang nhiều đầu đạn thì các đầu đạn cũng tách ra sau khi phóng. Phần đầu đạn mang bom chiến lược trở lại không khí chuyển động trong giai đoạn quỹ đạo và giai đoạn trở lại không khí nhảy quỹ đạo nhiều lần để né các hệ thống đánh chặn. Như thế, cần những đạn đánh chặn rất mạnh và số lượng đạn đanh chặn bắn lên lớn hơn nhiều so với số đạn tự hành đạn đạo mang đầu đạn chiến lược bắn tới. Khi sử dụng được SAM cho đánh chặn đạn tự hành đạn đạo, thì SAM có số lượng đạn rất lớn và nhẹ việc đi nhiều. Tuy nhiên, điều đó đến nay vẫn không khả thi và các ABM dùng những đạn riếng, số lượng ít, đắt đỏ và to nặng. Khi sử dụng SAM để đánh chặn đạn đạo, thì hướng ưu tiên là chở chúng trên các tầu chiến để đánh chặn từ biển, từ xa... đồng thời việc đánh đuổi theo mục tiêu của các SAM cho khả năng trúng cao vọt so với đánh chặn, đó là nguyên tắc của hệ thống EAGIS-hài hước là nó chưa có đạn đủ yêu cầu. Ngược lại với SAM dùng cho đánh chặn đạn đạn đạo, thì việc dùng các đạn ABM riêng hiện nay đều sử dụng phương pháp đánh chặn đối đầu, đặt ở gần mục tiêu.
 
Cho đến nay, phương án đánh chặn tên lửa liên lục địa khả thi vẫn là sử dụng các đạn tự hành mang đầu đạn hạt nhân nhỏ nổ phá hủy vùng rộng, chuyên dùng đánh chặn đạn địch ở các giai đoạn giữa (quỹ đạo) và cuối (vào không khí). Cùng với đạn, hệ thống radar cảnh báo sớm cũng là một khó khăn cần vượt qua khi muốn đánh chặn đạn tự hành đạn đạo liên lục địa. Ngoài việc đưa các vệ tinh quan sát radar và hồng ngoại lên, thì phương án radar trên mặt đất vẫn là đảm bảo nhất. Từ 195x Liên Xô đã xây dựng các radar cảnh báo sớm nhìn quá đường chân trời, kỹ thuật nhìn quá đường chân trời được thực hiện bằng các bước sóng dài <ref>[http://www.globalsecurity.org/wmd/world/russia/steel-yard.htm S-225 - ABM-2 System<!-- Bot generated title -->]</ref> xem radar Don-2N của ABM-2 <ref>[http://www.globalsecurity.org/wmd/world/russia/pill_box.htm Don-2NP Pill Box Radar - Soviet BMD<!-- Bot generated title -->]</ref>. Có thể xem bản đồ phủ sóng các radar đó ngày nay <ref>[http://www.globalsecurity.org/wmd/world/russia/facility-radar.htm Missile Defense Radar Sites<!-- Bot generated title -->]</ref> ảnh <ref>http://www.globalsecurity.org/wmd/world/russia/images/daryal_radar.gif</ref><ref>http://www.globalsecurity.org/wmd/world/russia/images/hh-map.gif</ref>. Các ABM còn cần thêm một hệ thống radar nữa là radar đánh chặn, sau các radar cảnh báo sớm, thì các radar đanh chặn định vị chính xác mục tiêu từ 750&nbsp;km và điều khiển đạn đánh chặn từ 300&nbsp;km đến 50&nbsp;km. Tất cả các radar này đều không thể luồn qua được bằng kỹ thuật tàng hình hấp thụ sóng radar, vì bước sóng của chúng dài, cần những áo tàng hình rất lớn dầydày hàng mét mà không đạn nào mang được.
 
A-35 là hệ thống đánh chặn đạn đạo tiêu chuẩn đầu tiên của Liên Xô 196x, được NATO gọi là ABM-1, đạn nặng 23 tấn, bắn xa 300&nbsp;km, mang động cơ hỗn hợp hồm cả động cơ tên lửa và động cơ ramjet dùng không khí. Phiên bản cải tiến ABM-1U mang tầng cuối là động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng bật tắt nhiều lần để chỉnh hướng quỹ đạo. Radar của hệ thống là Don-2 có tầm quét 6 ngàn km. Hệ thống đánh chặn đạn địch ở cả hai giai đoạn giữa và cuối. Từ đó đến nay đã nhiều lần cải tiến, ngày nay Nga đang dùng các ABM-3 và ABM-4.