Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận chiến Đại Tây Dương (1939–1945)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Robot: Sửa đổi hướng |
n chính tả, replaced: tầu → tàu (24), Tầu → Tàu using AWB |
||
Dòng 45:
Anh Quốc là một đảo đế quốc phụ thuộc nhiều vào tài nguyên từ thuộc địa bên ngoài. Để tiếp tục chiến đấu chống Đức, mỗi tuần Anh cần một triệu tấn nguyên vật liệu. Trận đánh trên Đại Tây Dương thật ra đơn giản chỉ vì Anh cần tiếp vận và Đức ra sức đánh chìm tàu bè để cắt tiếp vận này.
Từ năm 1942, Đức dự đoán Đồng Minh sẽ từ bờ biển Anh đổ bộ vào Pháp nên cố gắng đánh phá các
== Đụng độ lúc ban đầu (tháng 9 1939 – tháng 5 1940) ==
Năm 1939, hải quân Đức không đủ sức đánh lại lực lượng phối hợp hải quân Anh và hải quân Pháp. Đức phải dùng chiến lược tấn công
[[Tập tin:Graf Spee at Spithead.jpg|nhỏ|trái|Chiến hạm Admiral Graf Spee tại Spithead]]
Trong vòng vài tiếng sau khi Anh-Pháp tuyên chiến với Đức, hải quân Đức ra tay tấn công thuyền bè của đối phương.
Quân Anh-Pháp cũng ra sức dùng hải quân bao vây Đức, nhưng trên thực tế không gây ảnh hưởng gì đáng kể đến kỹ nghệ Đức. Hải quân Anh đồng thời thiết kế hệ thống hộ tống
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-2006-1130-500, Kapitänleutnant Günther Prien.jpg|nhỏ|trái|Günther Prien năm 1940]]
Một tháng sau, thuyền trưởng Đức [[Günther Prien]] chỉ huy chiếc U-47 lặn tuốt vào căn cứ hải quân Anh tại [[Scapa Flow]] là đánh chìm chiến hạm HMS ''Royal Oak'' đang thả neo tại đó. Sau cuộc đánh phá táo bạo này Prien được Đức ban danh hiệu chiến sĩ anh hùng.
Dòng 58:
Tại phía nam của Đại Tây Dương, chỉ trong ba tháng chiến hạm ''Admiral Graf Spee'' của Đức phá hủy hơn 50.000 tấn tàu bè, gây rất nhiều tổn thất cho Đồng Minh. Hải quân Anh-Pháp mở cuộc truy lùng ráo riết chiến hạm này. Trong khi đó chiếc ''Deutschland'' cũng đạt nhiều thành tích trên mạng bắc đại dương. Đến giữa tháng 12 năm 1939 thì chiếc ''Admiral Graf Spee'' bị một lực lượng nhỏ của hải quân Anh phát hiện đang đánh phá tàu bè tại cửa sông biên giới Argentina-Uruguay (''Río de la Plata''). Sau khi bị thương trầm trọng, ''Admiral Graf Spee'' trốn về cảng trung lập [[Montevideo]] rồi tự đánh đắm ngay sau đó.
Sau một loạt đụng độ đầu tiên, chiến trường Đại Tây Dương lắng xuống một thời gian. Đại đô đốc Đức [[Karl Dönitz]] tăng cường lực lượng
Đến mùa xuân năm [[1940]], [[Adolf Hitler|Hitler]] đặt kế hoạch cuộc tấn công các nước Bắc Âu, triệu tập các chiến thuyền và
[[Ngư lôi]] [[từ trường]] của U-Boat thường nổ quá sớm trước khi chạm được đến tàu địch hoặc chạy bên dưới gầm tàu. Suốt một thời gian, quân Đức không bắn phá được chiến hạm địch vì lỗi này. Bộ kỹ nghệ thiết kế vũ khí thì cho rằng lỗi là do thuỷ thủ không biết sử dụng. Nhưng sau đó họ khám phá ra trục trặc về [[từ trường]] do thay đổi theo vĩ tuyến xứ lạnh và độ sâu của tàu ngầm. Hải quân Đức sau đó phải dựa theo thiết kế ngư lôi của Đồng Minh.
Dòng 89:
Bộ chỉ huy Anh lúc bấy giờ phát hiện được một điểm quan trọng trong công tác hành quân hộ tống tàu buôn. Đoàn tàu buôn lớn với ít hộ tống dễ tránh phát hiện hơn là đoàn tàu nhỏ nhưng có hộ tống lớn.
Quân Đức giải mã được nhiều tín hiệu mật của hàng hải Anh nên có thể dự đoán hành trình của đoàn
Chiến thuật tấn công theo kiểu bầy sói đạt nhiều thắng lợi nhất vào tháng 9 - 10 năm 1940, phá hủy rất nhiều các đoàn tàu tiếp vận của Anh. Ngày [[21 tháng 9]], đoàn tàu HX 72 gồm 42 thủy thủ bị 4 chiếc U-boot tấn công. Trong hai ngày đánh nhau, 11 tàu buôn bị chìm, 2 tàu bị phá hỏng. Tháng 10, đoàn tàu SC 7 bị tổn thất 59% hàng tiếp vận. Trận tấn công đoàn tàu HX 79 trong những ngày sau đó là chứng minh hiệu lực của tàu ngầm Đức trên xa khả năng phòng thủ của hải quân Anh. Hạm đội Đồng Minh gồm 2 khu trục hạm, 4 tàu hộ vệ, 3 tàu kéo và 1 tàu rà mìn bị tấn công và tổn thất 1/4 lực lượng trong khi không một chiếc U-Boat nào bị thương. Ngày [[1 tháng 12]], 7 chiếc U-boot và 3 chiếc tàu ngầm Ý tấn công đoàn tàu HX 90, bắn chìm 10 tàu chiến của Đồng Minh và phá hỏng 3 chiếc khác. Dönitz theo đó tăng cường và phát huy chiến thuật tấn công bầy sói.
|