Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Kleidion”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
F~viwiki (thảo luận | đóng góp)
TRMC (thảo luận | đóng góp)
Dòng 37:
== Sự chuẩn bị của hai đế quốc ==
 
Samuel biết rằng quân đội Đông La Mã sẽ phải tiến vào đất nước của ông bằng cách vượt qua một loạt các con đèo hiểm trở và như vậy đây là cách để ngăn bước tiến của kẻ thù. Người Bulgaria đã xây dựng những con hào và mương dọc theo biên giới và tăng cường phòng thủ ở nhiều thung lũng bằng các bức tường và tháp canh, đặc biệt là ở Kleidion trên bờ [[sông Struma]], nơi mà Basil sẽ cần phải vượt qua để đến được miền trung của Bulgaria. Samuel tăng cường củng cố phòng bị bên sườn phía bắc của núi Belasitsa, và các tiền đồn ở phía nam và phía đông của lâu đài Strumitsa.<ref>''Ioannes Scylitzes'', Historia, II, tr. 45</ref> Ioannes Scylitzes, một thung lũng lớn dọc [[sông Strumitsa]] là một nơi thuận lợi cho việc tấn công và được quân Đông La Mã chọn làm nơi quyết đấu nhiều năm trước đây, nay được một đội quân Bulgaria tinh nhuệ đóng giữ. Ngoài ra, Samuel chọn [[Strumitsa]] làm nơi đặt phòng tuyến của mình bởi nó nằm trên con đường từ Thessaloniki dẫn đến Thrace ở phía đông và [[Ohrid]] ở phía tây,<ref>''Zlatarski'', History of Bulgaria in the Middle Ages , Vol. I, Part 2, các trang 731–732, 736</ref> địa hình gồ ghề ở phía nam đã được kết hợp với các hàng rào cọc nhọn và những bức tường chắn chắn được chốt giữ bởi các đơn vị tinh nhuệ nhất của Bugaria.<ref>''Nikolov'', Centralism and Regionalism in Early Medieval Bulgaria ,các trang 179–180</ref><ref>A description of the palisade built by Samuel between Belasitsa and Ograzhden (in Bulgarian) – [http://logos.uni-plovdiv.bg/GetResource?id=161 G. Mitrev, ''The palisade of Samuel and the battle in 1014''], các trang 76–79, in: Macedonian Review (journal), in Bulgarian, 1993, issue 2</ref>
 
Samuel quyết định đối mặt với Basileios II và quân đội của ông ta tại Kleidion không chỉ vì muốn gỡ gạc cho các thất bại liên tiếp, mà còn bởi mối lo âu về quyền lực của mình trong mắt của giới quý tộc, vốn bị lung lay bởi các chiến dịch của Basileios II. Năm 1005, ví dụ, thống đốc của cảng [[Durrës|Dyrrhachium]] quan trọng ở [[Biển Adriatic|Adriatic]] đã đầu hàng và dâng hai tay thành phố này cho Basileios II <ref>"Ostrogorski", Lịch sử của Byzantium, trang 404-405.</ref> Để đối mặt với mối đe dọa này, Samuel tập hợp một đội quân lớn để đối mặt với Đông La Mã, theo một số tài liệu con số này là 45.000 quân.<ref group="Ghi chú">"Nikolov'', Chủ nghĩa tập quyền và chủ nghĩa địa phương vào thời Sơ kì Trung cổ Bulgaria, p. 131. "G. Nikolov "ước tính tổng số quân đội Bun-ga-ri bao gồm các đội tuyển lực lượng dân quân địa phương ở mức tối đa 45.000. Sử gia Đông La Mã Georgios Monachos Kontinuatos đã viết rằng quân đội Bun-ga-ri đã có 360.000 người đàn ông, đây là con số phóng đại và binh lực thực tế nhỏ hơn 10 lần</ref> Basileios II cũng đã chuẩn bị cẩn thận, trưng tập một đội quân lớn của riêng mình, trong đó bao hàm một số tướng lĩnh kinh nghiệm nhất của đế quốc như tổng đốc Philippopolis (hiện nay là thành phố [[Plovdiv]]), Xiphias Nikephorros, người đã chinh phục thủ đô Bulgaria cũ [[Pliska]] và Preslav từ Samuel trong năm 1001.