Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cơ học cổ điển”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
n →‎Lịch sử: Thêm thể loại, replaced: sao Thủy → Sao Thủy using AWB
Dòng 8:
Những viên gạch đầu tiên của bộ môn '''cơ học''' dường như được xây nền từ [[thời Hy Lạp cổ đại]]. Những kết quả nghiên cứu đầu tiên được ngày nay biết đến là của [[Archimedes]] (287-212 TCN). Chúng bao gồm định lý mang tên ông trong thuỷ tĩnh học, khái niệm về khối tâm và nghiên cứu cân bằng của [[đòn bẩy]].
 
[[Tập tin:Galileo_by_leoniGalileo by leoni.jpg|nhỏ|phải|[[Galileo Galilei]]]]
 
Cơ học chỉ được đánh thức vào [[phục Hưng|thời kỳ Phục Hưng]] ở [[châu Âu]] với những tiến bộ vượt bậc vào [[thế kỷ 16|thế kỉ 16]]. Trong suốt đêm trường [[trung Cổ|thời Trung Cổ]], những lý thuyết ngụy biện của [[Aristoteles|Aristote]] (384-322 TCN) đã ngăn trở rất nhiều sự đi lên của khoa học đích thực. Vào thời này, chúng ta phải kể đến [[Leonardo da Vinci]] ([[1452]]-[[1519]]) với những nghiên cứu về tĩnh học. Tuy nhiên những tên tuổi lớn nhất của giai đoạn huy hoàng này chính là nhà khoa học [[người Ba Lan]] [[Nicolai Copernic]] ([[1473]]-[[1543]]) - người đã phủ nhận mô hình với [[Trái Đất]] là trung tâm vũ trụ của [[Claudius Ptolemaeus|Ptolémée]] (xem [[thuyết địa tâm]]) và mô tả những chuyển động đúng đắn của [[hệ Mặt Trời|hệ mặt trời]], là nhà thiên văn học [[người Đức]] [[Johannes Kepler]] ([[1571]]-[[1630]]) - người đã phát biểu ba định luật mang tên ông về sự chuyển động của các hành tinh, là nhà bác học thiên tài [[người Ý]] [[Galileo Galilei]] ([[1564]]-[[1642]]). Có thể nói Galileo là ông tổ khai sáng ra động lực học: ông đã đưa ra khái niệm [[gia tốc]], phát biểu vào năm [[1632]] [[nguyên lý tương đối Galileo]] và [[nguyên lý quán tính]]. Ông cũng đã nghiên cứu đến rất nhiều những vấn đề khác nhau của cơ học: con lắc, mặt phẳng nghiêng, sự rơi tự do.
Dòng 20:
[[Tập tin:WilliamRowanHamilton.jpeg|nhỏ|phải|200px|[[William Rowan Hamilton]]]]
 
Tiếp theo đó, sự phát triển của cơ học cổ điển đã đạt tới giới hạn với những ứng dụng tuyệt vời. Ví dụ như [[Pierre-Simon Laplace]] ([[1749]]-[[1827]]) đã cải thiện sự chính sáng về sự ra đời của chuyển động các hành tinh nhờ vào phương pháp nhiễu loạn. [[Urbain Le Verrier]] ([[1811]]-[[1877]]) đã tiên đoán trước sự tồn tại của [[sao Hải Vương]] bằng chính phương pháp này. Ngoài ra, ông cũng đã khám phá ra sự gần lại của cận điểm của [[saoSao Thủy]]. Tuy nhiên chính kết quả này lại đánh dấu một trong những giới hạn của cơ học Newton: kết quả này chỉ có thể được giải thích dựa vào cơ học tương đối. [[William Rowan Hamilton]] ([[1805]]-[[1865]]) đã đề xuất ra phép khai triển chính được biết đến với tên [[phương trình Hamilton]]. Chúng ta cũng có thể kể đến [[Henri Poincaré]] ([[1854]]-[[1912]]) với những đóng góp trong cơ học tính toán.
 
Cuối cùng có rất nhiều sự mở rộng của cơ học cổ điển trong lĩnh vực về các môi trường liên tục (thuỷ động lực học hoặc môi trường chịu biến dạng).
 
Chúng ta cũng không được phép quên rằng mặc dù ngày nay đã có rất nhiều những phát minh và khám phá trong cơ học lượng tử và cơ học tương đối ở [[thế kỷ 20|thế kỉ 20]] nhưng những nghiên cứu về hệ hỗn độn trong những năm 1970, về những áp dụng của cơ học cổ điển vẫn là một phần to lớn trong lâu đài [[vật lý học]]. Mặt khác, vẫn còn đó nguyên vẹn rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết trong cơ học cổ điển, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến dao động kép.
 
 
''xem [[Lịch sử cơ học]]''