Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Voyager 2”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm thể loại, replaced: sao Hải Vương → Sao Hải Vương (29), sao Thổ → Sao Thổ (14), sao Thiên Vương → Sao Thiên Vương (31), sao Diêm Vương → Sao Diêm Vương (5) using AWB |
n Thêm thể loại, replaced: mặt trăng → Mặt Trăng (7) using AWB |
||
Dòng 24:
|Orbits =
}}
Tàu vũ trụ '''''Voyager 2''''' là một [[thiết bị vũ trụ|tàu vũ trụ]] [[Sứ mệnh vũ trụ không người lái|không người lái]] [[liên hành tinh]] được phóng đi ngày 20 tháng 8 năm 1977. Cả tàu vũ trụ ''Voyager 2'' và ''[[Voyager 1]]'' đều được thiết kế, phát triển, và chế tạo tại [[Jet Propulsion Laboratory]] gần [[Pasadena, California]]. Tương tự về hình thức và thiết bị với tàu chị em trong [[Chương trình Voyager]] của mình là ''[[Voyager 1]]'', ''Voyager 2'' được phóng đi với một quỹ đạo thấp và cong hơn, cho phép nó được giữ trong mặt phẳng [[Ecliptic]] (mặt phẳng của [[Hệ Mặt Trời|Hệ mặt trời]]) để nó có thể tới được [[Sao Thiên Vương]] và [[Sao Hải Vương]] nhờ sử dụng [[hỗ trợ hấp dẫn]] khi nó bay qua [[Sao Thổ]] năm 1981 và Sao Thiên Vương năm 1986. Vì quỹ đạo được lựa chọn này, ''Voyager 2'' không thể tiếp cận gần với
Tàu vũ trụ ''Voyager 2'' đã thực hiện chuyến bay không người lái có hiệu quả nhất, tới thăm toàn bộ bốn hành tinh phía ngoài và các hệ
== Hồ sơ phi vụ ==
Dòng 55:
=== Gặp Sao Mộc ===
Lần tiếp cận [[Sao Mộc]] gần nhất diễn ra ngày 9 tháng 7 năm 1979. Nó bay vào trong khoảng cách 570,000 km (350,000 dặm) từ các đám mây cao nhất trên hành tinh này. Nó đã phát hiện một số [[Các vành đai Sao Mộc|vành đai xung quanh Sao Mộc]], cũng như hoạt động núi lửa bên trên
[[Vết Đỏ Lớn|Đốm Đỏ Lớn]] được khám phá là một cơn bão phức tạp đang di chuyển theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Một mạng lưới các cơn bão và xoáy lốc nhỏ hơn đã được tìm thấy trên khắp dải mây.
Việc phát hiện các hoạt động núi lửa trên [[io (vệ tinh)|
Mặt
Hai vệ tinh mới, nhỏ, [[Adrastea (vệ tinh)|Adrastea]] và [[Metis (vệ tinh)|Metis]], đã được tìm thấy với quỹ đạo ngay ở bên ngoài vành đai. Một vệ tinh mới thứ ba, [[Thebe (vệ tinh)|Thebe]], đã được phát hiện giữa các quỹ đạo của Amalthea và Io.
Dòng 88:
''Voyager 2'' thấy rằng một trong những hiệu ứng đáng ngạc nhiên nhất của việc quay sang bên của Sao Thiên Vương là hiệu ứng trên đuôi của từ trường hành tinh. Nó cũng bị nghiêng khoảng 60 độ so với trục quay của Sao Thiên Vương. Đuôi từ trường của hành tinh được thể hiện bị vặn xoắn bởi Sao Thiên Vương thành một hình nút bần dài theo sau hành tinh. Sự hiện diện của từ trường mạnh của Sao Thiên Vương chưa từng được biết tới cho tới khi ''Voyager's 2'' đến.
Các vành đai bức xạ của Sao Thiên Vương được phát hiện có độ dày đặc như các vành đai của [[Sao Thổ]]. Mật độ phát xạ bên trong các vành đai Sao Thiên Vương khiến sự bức xạ sẽ "nhanh chóng" tối đi -trong 100,000 năm- bất kỳ methane nào bị bẫy trong các bề mặt băng của các mặt trănb bên trong và các phần tử vành đai. Kiểu tối đi này có thể đã góp phần vào những bề mặt tối của các
Một quầng sương mù trên cao được phát hiện xung quanh cực có ánh nắng của Sao Thiên Vương. Khu vực này cũng được phát hiện phát ra một lượng lớn ánh sáng cực tím, một hiện tượng được gọi là "dayglow." Nhiệt độ khí quyển trung bình khoảng 60 K (âm 350 độ Fahrenheit/âm 213 độ Celsius). Đáng ngạc nhiên, cực tối và cực được chiếu sáng, và hầu hết hành tinh có nhiệt độ gần như nhau ở các đám mây trên đỉnh.
Mặt
Tất cả chín vành đai từng biết trước kia của Sao Thiên Vương đã được các khí cụ trên ''Voyager 2'' nghiên cứu. Những đo đạc này cho thấy các vành đai Sao Thiên Vương hoàn toàn khác biệt so với các vành đai Sao Mộc và Sao Thổ. Hệ thống vành đai Sao Thiên Vương có thể khá trẻ, và nó không hình thành cùng thời điểm hình thanh Sao Thiên Vương. Các phần tử tạo nên các vành đai có thể là các tàn tích của một vệ tinh đã bị tan vỡ hoặc bởi sự kiện va chạm tốc độ cao hoặc bởi [[Giới hạn Roche|các hiệu ứng thuỷ triều]].
|