Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vật lý thiên văn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm thể loại, replaced: Trái đất → Trái Đất (5), sao Mộc → Sao Mộc (2) using AWB
n →‎Lịch sử: Thêm thể loại, replaced: mặt trăng → Mặt Trăng using AWB
Dòng 11:
[[Aristarchus of Samos]] (khoảng 310-khoảng 250 trước Công Nguyên) đầu tiên đề ra sự vận động của các [[thiên thể]] được giải thích rằng Trái Đất và tất cả các hành tinh trong [[Hệ Mặt Trời|Hệ mặt trời]] đều quay xung quanh Mặt trời. [[Thuyết nhật tâm]] của Aristarchus không được chấp nhận trong thế giới Hy Lạp cổ đại trong nhiều thế kỷ, và quan điểm Mặt trời và các hành tinh quay xung quanh Trái Đất trở thành cơ bản không thể chối cãi, cho đến khi [[Nicolaus Copernicus]] làm sống lại mô hình Nhật tâm trong thế kỷ 16. Năm 1609, [[Galileo Galilei]] phát hiện ra 4 vệ tinh sáng nhất của Sao Mộc, và ghi nhận quỹ đạo của chúng so với Sao Mộc, điều đó mâu thuẫn với [[thuyết địa tâm|giáo lý Địa tâm]] của Nhà thờ Cơ đốc giáo vào lúc đó, và thoát khỏi sự trừng phạt bằng cách bảo vệ quan điểm của ông được sinh ra bởi toán học, không phải từ những triết lý tự nhiên, mặc dù nó thật sự khó hiểu.
 
Phần lớn các số liệu thiên văn chính xác được quan sát bởi [[Tycho Brahe]] đã đặt nền móng cho sự phát triển các học thuyết sau này về vũ trụ. Đầu tiên là các quy tắc dựa trên số liệu thực nghiệm, điển hình là ba định luật của [[Johannes Kepler|Kepler]] về sự chuyển động của các hành tinh, đề xướng vào thế kỷ 17. Sau đó, [[Newton]] đã tạo một cầu nối giữa các định luật của Kepler và [[động lực học]] của [[Galileo Galilei|Galileo]] bằng việc cho rằng có sự giống nhau giữa động lực học của các vật thể trên Trái Đất và động lực học giữa của các [[hành tinh]] và [[mặtMặt trăngTrăng]]. [[Cơ học thiên thể]] - sự áp dụng định luật hấp dẫn và các định luật của Newton để giải thích các định luật của Kepler về sự chuyển động của các hành tinh, đã trở thành sự hợp nhất đầu tiên của vật lý và thiên văn học.
 
Sau khi Isaac Newton công bố quyển [[Principia]], [[ngành hàng hải]] đã bắt đầu có những chuyển biến. Bắt đầu vào những năm 1970, thế giới bắt đầu để ý đến việc sử dụng một hệ [[vĩ độ]] mới, cũng như dùng những chiếc đồng hồ chuẩn xác. Nhu cầu của ngành hàng hải thời bấy giờ đã đặt ra yêu cầu cho một cuộc chạy đua về các số liệu liệu quan sát thiên văn và phưong tiện ngày càng chính xác hơn, cũng như một nền tảng khoa học mạnh mẽ hơn nữa.