Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Đông Dương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Felo (thảo luận | đóng góp)
Bạn muốn thảo luận thì mở 1 mục thảo luận tôi sẽ thảo luận với bạn
vào thảo luận giải thích sao lại sửa thế?
Dòng 228:
Cuối năm 1952, [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] mở [[Chiến dịch Tây Bắc|Chiến dịch tiến công Tây Bắc]] giải phóng thị xã và hầu hết Sơn La cùng các khu vực Nghĩa Lộ, Yên Bái (2 huyện), Lai Châu (4 huyện). Cuộc tấn công vào Phú Thọ để cứu vãn tình thế của Salan thất bại. Salan liền cho củng cố Nà Sản, xây dựng vị trí này như một "con nhím" xù lông để chặn bước tiến của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]].
 
Ở miền Trung, [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã đạt được những thành công quan trọng. Vùng kiểm soát của Liên hiệp Pháp ở Tây Nguyên đã bị thu hẹp lại chỉ còn vài vùng ven biển hẹp ở quanh Huế, Đà Nẵng, và [[Nha Trang]]. Những khu vực duy nhất mà Liên hiệp Pháp còn có thể thành công là Nam Kỳ và Campuchia.
 
[[Mùa xuân]] năm 1953, [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] tổ chức một lực lượng lớn tiến công quân Liên hiệp Pháp ở Lào, với sự hỗ trợ của Quân đội [[Chính phủ kháng chiến Lào|Chính phủ Souphanouvong]]. Do hậu cần quá xa nên [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] không tiến công quân Liên hiệp Pháp ở [[Cánh đồng Chum]]. Đây được coi là thành công lớn của Pháp.
 
Ở các vùng khác, [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] tấn công phối hợp đồng bộ từ [[Nam Bộ]], [[Khu 5]], [[Tây Nguyên]], [[Trung Lào]], [[Hạ Lào]], [[Bắc Bộ]], buộc [[Pháp]] phân tán xé lẻ khối quân cơ động. [[Việt Minh]] tiến đánh [[Tây Bắc]], Liên hiệp Pháp không còn lực lượng cơ động để ứng cứu, hình thành [[Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954]].
 
=== Kế hoạch Navarre và trận Điện Biên Phủ ===
{{chính|Kế hoạch Navarre|Cuộc hành quân Atlante|Chiến cục đông-xuân 1953-1954|Chiến dịch Điện Biên Phủ}}
[[Tập tin:CamcoDienBienPhu.jpg|nhỏ|250px|trái|[[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] phất cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp tại Điện Biên Phủ]]
Tháng 7 năm [[1953]], chỉ huy mới của [[Liên hiệp Pháp]], tướng [[Henri Navarre]], đến [[Đông Dương]]. Được sự hứa hẹn về việc [[Mỹ]] tăng viện trợ quân sự, Navarre chuẩn bị cho một cuộc tổng phản công mà báo chí Pháp và Mỹ gọi là "[[Kế hoạch Navarre]]".
 
Ngày 18 tháng 7 năm 1953, Navarre mở [[cuộc hành quân Hirondelle]] ("Con én") vào [[Lạng Sơn]] và cuộc hành binh "Camargue" vào [[Quảng Trị]] nhằm phá hủy được một số dụng cụ và máy móc của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở [[Lạng Sơn]], quân Liên hiệp Pháp lùng sục các kho tàng rồi vội vã rút chạy. Sau đó truyền thông Pháp loan tin quân đội đã diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ trong khu tam giác là mối đe dọa trên quốc lộ số 1.
 
Liên tiếp với hai cuộc hành quân này, ngày 9 tháng 8 năm 1953 Liên hiệp Pháp rút quân ra khỏi Nà Sản bằng không vận. Trước đây, năm 1952, Pháp đặt cứ điểm [[Na Sản]] để ngăn [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] tiến công quân Liên hiệp Pháp ở Lào.<ref>p 497 Việt Sử Toàn Thư</ref>
 
Ngày 15 tháng 10 năm 1953, Navarre mở [[Chiến dịch Hải Âu|Cuộc hành quân Moutte]] vào Ninh Bình và Thanh Hóa hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường chính. Mục đích chính lại là phá các căn cứ hậu cần tiền duyên của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] trong cuộc tiến công 1953-1954 được cho là sẽ diễn ra ở đồng bằng. Nhưng thực sự trong kế hoạch [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] được đề ra hồi tháng 9, [[đồng bằng Bắc Bộ]] chỉ là chiến trường phối hợp. [[Chiến dịch Hải Âu|Cuộc hành quân Moutte]] diễn ra là sự suy đoán sai của Navarre cùng sự xuất sắc của bộ đội mật mã Việt Nam.
 
Tháng 11 năm 1953, Navarre mở [[cuộc hành quân Castor]] đánh chiếm [[Điện Biên Phủ]] - Khu vực mà ông cho rằng có vị trí chiến lược chặn giữa tuyến đường chính của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] sang Lào. Navarre xem căn cứ này vừa là một vị trí khóa chặn, vừa là một cái bẫy để nhử đối phương vào một trận đánh lớn theo kiểu kinh điển và có tính chất quyết định mà tại đó Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ bị tiêu diệt bởi pháo binh và hỏa lực không quân vượt trội của Pháp. Navarre đã chọn [[Điện Biên Phủ]] - vùng đất nằm trong một thung lũng lớn, cách Hà Nội 200 [[dặm]] đường không, với sự chi viện của khoảng 400 máy bay. Quân Liên hiệp Pháp sau những trận đánh nống thất bại đã nhường các điểm cao xung quanh cho [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]], Navarre cho rằng khi đó [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] không đủ khả năng đưa pháo lên Điện Biên Phủ nên sẽ không có nguy hiểm gì từ các điểm cao. [[Điện Biên Phủ]] được Navarre xem như là một ''"cái nhọt tụ độc"'', hút hết phần lớn chủ lực của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] và đảm bảo an toàn cho [[đồng bằng Bắc Bộ]].
 
Khi đó, Đại tướng [[Võ Nguyên Giáp]] đang nghĩ tới một cuộc tấn công, hy vọng sẽ mở được một con đường xuyên Lào thọc qua Campuchia. Sau đó đưa lực lượng [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] tại miền Bắc vào chi viện bổ sung cho lực lượng sẵn có ở [[Nam Bộ]]. Trong cuộc họp tháng 11 năm 1953 của [[Bộ Quốc phòng (Việt Nam)|Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], các chỉ huy quân sự quyết định mở [[Chiến cục đông-xuân 1953-1954]] để xé lẻ khối quân chủ lực của Liên hiệp Pháp đang co cụm đồng bằng Bắc Bộ. Các vị trí tiến công được xác định ở Lai Châu, Trung-Hạ Lào và Tây Nguyên. Ý tưởng tuyến đường chiến lược xuyên Lào sẽ được thực hiện một phần trong tương lai thông qua con [[đường mòn Hồ Chí Minh]].
[[Tập tin:Indochina,1954.jpg|nhỏ|Bản đồ Đông Dương tháng 7 năm 1954, Nguồn: The Pentagon Papers Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3, "The Geneva Conference, May-July, 1954", page 123 (Boston: Beacon Press, 1971)]]
[[Chiến dịch Lai Châu]] và [[Chiến dịch Trung Lào]] tháng 12 năm 1953 đến tháng 1 năm 1954 đã giúp [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] nắm giữ mảng lớn còn lại của vùng Tây Bắc (Điện Biên Phủ chỉ là một thung lũng nhỏ) và phần lớn vùng Trung và Nam Lào.<ref name="Spencer.Encyc.190">Spencer C.Tucker, ''Encyclopedia of the Vietnam War'', ABC-CLIO, 2000, tr. 190.</ref>
 
Để đối phó, Navarre tăng cường cho Điện Biên Phủ khiến nó trở thành một ''"pháo đài bất khả xâm phạm"'' trong con mắt phương Tây. Nhưng Navarre không hề biết rằng bản thân đã rơi vào một cái "bẫy" của [[Võ Nguyên Giáp]] khi "đặt bẫy" đối thủ của mình. Việc xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở vùng núi Tây Bắc hiểm trở đã hút đi của Liên hiệp Pháp những đơn vị thiện chiến nhất. Điều đó tạo nên khoảng trống không thể bù vào ở [[đồng bằng Bắc Bộ]].
 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định vào "bẫy", và đưa vào Điện Biên Phủ 4 [[sư đoàn]] với một số lượng lớn [[pháo]] xấp xỉ quân Pháp ở Điện Biên Phủ, dù cơ số đạn hạn chế (chủ yếu là thu được của Pháp; phần Trung Quốc viện trợ rất hạn chế do nước này [[Chiến tranh Triều Tiên|tham chiến tại Triều Tiên]]). Những cuộc tiến công trên toàn Đông Dương không cho [[Liên hiệp Pháp]] tập hợp một đội quân cơ động ứng cứu. Những đơn vị phòng không đầu tiên của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] được huấn luyện ở [[Liên Xô]] về nước tham chiến. Một lực lượng khổng lồ dân công làm công tác vận tải. Các đơn vị mạnh nhất của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] bao vây quân [[Liên hiệp Pháp]] ở [[Điện Biên Phủ]].
 
Cuộc [[Chiến dịch Điện Biên Phủ|vây hãm Điện Biên Phủ]] diễn ra từ ngày [[13 tháng 3]] đến ngày [[7 tháng 5]] khi quân Liên hiệp Pháp đầu hàng. Ở [[Washington, D.C.|Washington]] đã có cuộc tranh luận về việc Mỹ có nên trực tiếp can thiệp bằng quân sự, nhưng tổng thống [[Eisenhower]] đã quyết định loại bỏ khả năng này do chính quyền [[Anh]] sẽ không ủng hộ.
 
Cục diện chiến trường [[Đông Dương]], tại thời điểm trong và sau [[Chiến dịch Điện Biên Phủ]], [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] kiểm soát khoảng 2/3 [[lãnh thổ]] [[Việt Nam]], nhưng chủ yếu là các vùng nông thôn và rừng núi, một số thị xã nhỏ, chưa kiểm soát được các thành phố lớn, [[Liên hiệp Pháp]] kiểm soát một số tỉnh [[đồng bằng]] và các [[thành phố]] lớn đông dân cư, một số tỉnh đồng bằng nằm trong vùng tranh chấp. Việt Minh kiểm soát gần như toàn bộ miền Bắc Việt Nam nhưng tại miền Nam Việt Nam, [[Quânquân đội Quốc gia Việt Nam]] và quân đội Pháp chiếm ưu thế, quân đội riêng của các giáo phái tự trị cũng khá mạnh nên Việt Minh chỉ kiểm soát được một số vùng tại Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
 
Sau 56 ngày đêm, cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ, toàn bộ 18.000 quân Pháp bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh. Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] trong toàn bộ chiến tranh Đông Dương. Trên phương diện quốc tế trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên quân đội của một quốc gia thuộc địa [[châu Á]] đánh thắng bằng quân sự một quân đội của một [[cường quốc]] [[châu Âu]]. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì [[Đông Dương]] là lãnh thổ thuộc Liên hiệp Pháp của Pháp và buộc nước này ra khỏi Đông Dương. Ngày [[8 tháng 5]], [[hội nghị Geneva]] bắt đầu họp bàn về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương.
Dòng 297:
Trong giai đoạn đầu, Liên Xô đã hình thành quan hệ chính trị toàn diện với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ủng hộ chủ trương và đường lối khôi phục và xây dựng miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, quan hệ này lại không đậm đà bằng quan hệ với các nước khác. Ngày 3/2/1950, Liên Xô mới đặt quan hệ ngoại giao với [[Indonesia]] (sau Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 3 ngày), song tháng 1/1953 Liên Xô đã cử đại sứ đi [[Jakarta]], trong khi đó mãi đến gần 2 năm sau tức là ngày 4/11/1954, Liên Xô mới cử Lavraschev - đại sứ đầu tiên của Liên Xô đến [[Hà Nội]].<ref>[http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=2191%3Aquan-h-vit-nam-lien-xo-trong-giai-on-khang-chin-chng-m-1954-1975&catid=1513%3Avit-nam-hin-i&Itemid=2938&lang=vi&site=71 Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Phạm Quang Minh]</ref>
 
=== MỹHoa Kỳ ===
{{bài chính|Quá trình can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam}}