Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Alkan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 71:
Các nguyên liệu ban đầu cho gia công chế biến là khí thiên nhiên và [[dầu thô]]. Dầu thô được tách ra tại các nhà máy lọc dầu bằng cách [[chưng cất phân đoạn]] và sau đó được chế biến thành các sản phẩm khác nhau, ví dụ [[xăng]]. Sự "phân đoạn" khác nhau của dầu thô có các điểm sôi khác nhau và có thể cô lập và tách bóc rất dễ dàng: với các phân đoạn khác nhau thì các chất có điểm sôi gần nhau sẽ bay hơi cùng với nhau.
 
Sử dụng chủ yếu của một ankan nào đó có thể xác định hoàn toàn phù hợp với số nguyên tử cacbon trong nó, mặc dù sự phân chia ranh giới dưới đây là đã lý tưởng hóa và chưa thực sự hoàn hảo. Bốn ankan đầu tiên được sử dụng chủ yếu để cung cấp nhiệt cho các mục đích sưởi ấm và nấu ăn, và trong một số quốc gia còn để chạy máy phát điện. MêtanMetanêtanetan là các thành phần chủ yếu của khí thiên nhiên; chúng thông thường được lưu trữ như là khí nén. Tuy nhiên, rất dễ dàng chuyển chúng sang dạng lỏng: điều này đòi hỏi đồng thời việc nén và làm lạnh khí.
 
PrôpanPropan và butan có thể hóa lỏng ở áp suất tương đối thấp, và chúng được biết dưới tên gọi '''khí hóa lỏng''' (viết tắt trong [[tiếng Anh]] là [[LPG]]). Ví dụ, prôpanpropan được sử dụng trong các lò nung khí prôpanpropan còn butan thì trong các bật lửa sử dụng một lần (ở đây áp suất chỉ khoảng 2 [[barơ]]). Cả hai ankan này được sử dụng làm tác nhân đẩy trong các [[bình xịt]].
 
Từ [[pentan]] tới [[octan]] thì ankan là các chất lỏng dễ bay hơi. Chúng được sử dụng làm nhiên liệu trong các [[động cơ đốt trong]], do chúng dễ hóa hơi khi đi vào trong khoang đốt mà không tạo ra các giọt nhỏ có thể làm hư hại tính đồng nhất của sự cháy. Các ankan mạch nhánh được ưa chuộng hơn, do chúng có sự bắt cháy muộn hơn so với các ankan mạch thẳng tương ứng (sự bắt cháy sớm là nguyên nhân sinh ra các tiếng nổ lọc xọc trong động cơ và dễ làm hư hại động cơ). Xu hướng bắt cháy sớm được đo bằng [[chỉ số octan]] của nhiên liệu, trong đó [[2,2,4-trimêtylpentantrimetylpentan]] (''isooctan'') có giá trị quy định ngẫu hứng là 100 còn [[heptan]] có giá trị bằng 0. Bên cạnh việc sử dụng như là nguồn nhiên liệu thì các ankan này còn là [[dung môi]] tốt cho các chất không phân cực.
 
Các ankan từ [[nonan]] tới ví dụ là [[hexadecan]] (ankan với mạch chứa 16 nguyên tử cacbon) là các chất lỏng có [[độ nhớt]] cao, ít phù hợp cho mục đích sử dụng như là xăng. Ngược lại, chúng tạo ra thành phần chủ yếu của [[dầu diesel]] (điêzen) và [[nhiên liệu hàng không]]. Các nhiên liệu điêzen được đánh giá theo [[chỉ số cetan]] (cetan là tên gọi cũ của hexadecanhexađecan). Tuy nhiên, điểm nóng chảy cao của các ankan này có thể sinh ra các vấn đề ở nhiệt độ thấp và tại các vùng gần cực Trái Đất, khi đó nhiên liệu trở nên đặc quánh hơn và sự truyền dẫn của chúng không được đảm bảo chuẩn xác.
 
Các ankan từ hexadecanhexađecan trở lên tạo ra thành phần quan trọng nhất của các loại chất đốt trong các lò đốt và [[dầu bôi trơn]]. Ở chức năng sau thì chúng làm việc như là các chất chống gỉ do bản chất không ưa nước của chúng làm cho nước không thể tiếp xúc với bề mặt [[kim loại]]. Nhiều ankan rắn được sử dụng như là [[sáp parafin]], ví dụ trong các loại [[nến]]. Không nên nhầm lẫn sáp parafin với [[sáp]] thực sự (ví dụ sáp [[ong]]) chủ yếu là hỗn hợp của các [[este]].
 
Các ankan với độ dài mạch cacbon khoảng từ 35 trở lên được tìm thấy trong [[bitum]], được sử dụng chủ yếu trong [[nhựa đường]] để rải đường. Tuy nhiên, các ankan có mạch cacbon lớn có ít giá trị thương mại và thông thường hay được tách ra thành các ankan mạch ngắn hơn thông qua phương pháp [[crackinh (hóa học)|crackinh]].