Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cỏ biển”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: {{cite web → {{chú thích web, {{cite book → {{chú thích sách, {{cite news → {{chú thích báo using AWB |
|||
Dòng 46:
==Dịch vụ hệ sinh thái==
Thỉnh thoảng cỏ biển được gắn mác là "các [[kỹ sư hệ sinh thái]]" do chúng tự tạo lập một phần môi trường sống của riêng mình. Điều này thể hiện ở chỗ lá cỏ biển làm chậm dòng chảy giúp đẩy mạnh quá trình [[lắng đọng trầm tích]], đồng thời [[rễ]] và thân rễ của cỏ còn giúp ổn định đáy biển. Cỏ biển mang tầm quan trọng đối với các loài sinh vật chủ yếu là vì (1) chúng cung cấp nơi trú ngụ cho các sinh vật đó, đồng thời (2) cỏ biển có [[năng suất sơ cấp]] rất cao. Chính vì thế mà cỏ biển mang đến cho vùng [[bờ biển]] nhiều [[hàng hóa hệ sinh thái]] và [[dịch vụ hệ sinh thái]] như cung cấp [[thủy sản|bãi đánh bắt cá]], giúp chắn [[sóng biển]], cung cấp khí [[ôxy]] và giúp chống [[xói mòn]] ven biển. Các bãi cỏ biển chiếm 15% tổng lượng dự trữ cacbon của đại dương. Mỗi hecta cỏ biển có thể giữ một lượng [[cacbon điôxít]] (CO<sub>2</sub>) gấp đôi so với mỗi hecta [[rừng mưa]]. Hàng năm cỏ biến cô lập được 27,4 triệu tấn CO<sub>2</sub>. Tuy nhiên, hiện tượng [[ấm lên toàn cầu]] khiến một số loài cỏ biển rơi vào nguy cơ tuyệt chủng; dự báo loài ''[[Posidonia oceanica]]'' sẽ biến mất vào khoảng năm 2050. Tác hại của điều này là sự giải phóng CO<sub>2</sub>.<ref>Tạp chí EOS, tháng 7-8 năm 2012</ref><ref>{{
}}</ref>
Dòng 59:
Các tác động từ thiên nhiên như [[bão]], sự ăn cỏ, sự cào phá của các tảng băng và sự khử nước là những tác động cố hữu đối với hệ sinh thái cỏ biển. Cỏ biển thể hiện tính [[co giãn kiểu hình]] (''phenotypic plasticity'') rất cao và thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi của môi trường.
Hiện cỏ biển đang suy giảm trên phạm vi toàn cầu. Trong những thập niên gần đây, có khoảng 30.000
Thứ nhất, nạn dư thừa chất dinh dưỡng hữu cơ như [[nitơ]], [[phốtpho]] gây đầu độc cỏ biển<ref>{{
Thứ hai, các bằng chứng thu thập được cho thấy rằng hoạt động đánh bắt quá mức các loài [[săn mồi]] bậc trên của chuỗi thức ăn (tức cá ăn thịt cỡ lớn) làm gia tăng số lượng cá ăn thịt cỡ nhỏ, từ đó gây sút giảm số lượng các loài ăn tảo như [[động vật giáp xác]] và [[lớp Chân bụng|chân bụng]]. Hậu quả của việc này là sự phát triển mạnh của tảo.
|