Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rạn san hô viền bờ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
tham khảo ý en.wiki
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
==Phân đới==
[[Hình:Coral reef diagram.jpg|nhỏ|phải|350px|Minh họa về phân đới rạn san hô viền bờ]]
Đa số rạnRạn san hô viền bờ được cho là các ám tiêu có địa mạo đơn giản.<ref>{{harv|Hopley|Smithers|Parnell|2007|p=[http://books.google.com.vn/books?id=omr72hD6dvQC&lpg=PA192&dq=%22758%22%20%22fringing%20reefs%22%20%22great%20barrier%20reef%22&pg=PA191#v=onepage&q=%22758%22%20%22fringing%20reefs%22%20%22great%20barrier%20reef%22&f=false 191]}}, dẫn lại Steers & Stoddard (1977) </ref> Có thể phân đới chúng thành ba thành phần chính: mặt trước rạn (''forereef''), mào rạn (''reef crest'') và mặt sau rạn (''backreef''<ref name="s430" />, bao gồm vùng nằm phía sau mào rạn, mặt bằng rạn-''reef flat'',...<ref>{{harv|Wood|1999|p=[http://books.google.com.vn/books?id=H_ah6Hzib4AC&lpg=PA19&dq=%22fringing%20reef%22%20%22reef%20crest%22&pg=PA19#v=onepage&q=%22fringing%20reef%22%20%22reef%20crest%22&f=false 19]}}</ref>). Việc phân biệt rạn viền bờ với rạn chắn bờ có thể bị nhập nhằng trong trường hợp mào rạn của rạn viền bờ bị ngăn cách với đường bờ [đất liền hay đảo] bởi vùng nước sâu hơn bình thường.<ref>{{harv|Smithers|2011|p=431}}, dẫn lại Chappell (1974)</ref> Milliman (1974) đưa ra tiêu chuẩn định nghĩa rạn san hô viền bờ là độ sâu vùng nước ở đới mặt trong rạn có giá trị dưới 10 mét để định nghĩa một rạn san hô có phải viền bờ hay không.<ref>{{harv|Smithers|2011|p=431}}, dẫn lại Milliman (1974)</ref>
 
===Mặt trước rạn===
Mặt trước rạn, hay sườn dốc (''reef slope'') là khu vực rất dốc, hầu như thẳng đứng xuống đáy đại dương. Do nơi đây xa đường bờ nhất nên san hô ở sườn dốc tránh được ảnh hưởng [bất lợi] từ nguồn [[nước ngọt]] và trầm tích đổ ra từ phía trong đường bờ, từ đó phát triển đa dạng mạnh mẽ cả về mật độ và số lượng loài.<ref name="ch306" />
 
===Mào rạn===
Dòng 23:
* '''Phát triển theo phương ngang về phía biển''': rạn san hô khởi sự hình thành tại đường bờ và gần sát với mặt nước, do vậy không gian cho sự phát triển theo phương đứng là hầu như không có.<ref name="kw272">{{harv|Kennedy|Woodroffe|2002|p=272}}</ref>
* '''Phát triển theo phương ngang về phía biển trên nêm trầm tích phi ám tiêu''': rạn san hô cũng phát triển hướng ra biển do thiếu không gian cho phép san hô phát triển hướng lên, nhưng điểm khác biệt là khung san hô phát triển trên một nêm trầm tích bùn. Vì vậy mà sự lắng đọng trầm tích loại này ở đới mặt ngoài rạn là yếu tố chi phối tiến trình phát triển hướng ra biển của rạn san hô do rạn cần lớp trầm tích này làm nền để phát triển.<ref name="kw272" />
* '''Phát triển từng hồi''': rạn san hô phát triển theo từng thời đoạn, nghĩa là rạn san hô mới hình thành sẽ nằm song song với đới sườn dốc của một rạn san hô cũ. Khoảng trống giữa các rạn san hô này được khoả lấp bởi các trầm tích bở rời có nguồn gốc ám tiêu.<ref name="kw272" /><ref name="s439">{{harv|Smithers|2011|p=439}}</ref>
* '''Mào rạn nổi lên - vụng biển bị lấp đầy''': sự phát triển của rạn san hô tập trung ở vùng xa đường bờ, nói cách khác là mào rạn phát triển nhanh chóng hơn mặt bằng rạn. Khi mào rạn vươn đến mặt biển thì vùng nước giữa đường bờ và mào rạn trở thành một vụng biển nông [mào rạn tựa như một "dải chắn"]. Vụng biển này sẽ bị lấp đầy bởi trầm tích từ mào rạn hay trầm tích được sản sinh ở ngay vụng biển đó.<ref name="s439" /><ref name="kw273">{{harv|Kennedy|Woodroffe|2002|p=273}}</ref>
* '''Bão tác động''': mô hình này tương tự mô hình thứ năm nhưng khác ở chỗ, "dải chắn" hình thành là do tác động từ các cơn bão. Bão đưa vật liệu san hô từ phía ngoài của rạn về hướng đường bờ và tạo thành "dải chắn". Trầm tích sẽ tích tụ phía sau dải chắn này. Các cơn bão kế tiếp sẽ tiếp tục định hình rạn san hô và chuyển dịch dải chắn về hướng biển.<ref name="kw273" />