Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Antiochos III Đại đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến d:Q3365 tại Wikidata
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 16:
| thông tin tước vị đầy đủ =
| tước vị đầy đủ =
| hoàng tộc = [[Vương quốc Seleukos|Nhà Seleukos]]
| kiểu hoàng tộc = Triều đại
| thông tin phối ngẫu =
Dòng 34:
'''Antiochos III Đại đế''' ([[Tiếng Hy Lạp]]: '''{{Polytonic|Ἀντίoχoς Μέγας}}'''), (khoảng 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ 222 TCN đến 187 TCN) là con út của [[Seleukos II Kallinikos]], năm 18 tuổi trở thành vị [[vua]] thứ 6 của [[Vương quốc Seleukos]] thời [[Hy Lạp hóa]].
 
Lên kế vị khi còn thanh niên, Antiochos là vua có đầy tham vọng. Dù thất bại trong chiến tranh với [[nhà Ptolemaios|vương quốc Ptolemaios]] trong những năm đầu, vào những năm tiếp theo, Antiochos đã chứng tỏ mình là một trong những ông vua thành công nhất của nhà Seleukos, chỉ sau [[Seleukos I Nikator|Seleukos I]]. Sau cuộc Đông chinh ở Amyzon trong các năm 203 và 202 TCN, ông được đặt ngoại hiệu là ''[[Đại đế]]''. Bản thân ông cũng xưng "Đại vương", tức là ''Basileus Megas'' theo [[tiếng Hy Lạp]] và ''[[Shah]]'' theo [[tiếng Ba Tư]], sau khi chiếm được Koile Syria.
 
Tự xưng là "Chiến sĩ của nền tự do Hy Lạp chống lại sự đô hộ của La Mã", Antiochos III gây [[Chiến tranh La Mã-Syria|chiến]] với [[Cộng hòa La Mã]] ở đại lục Hy Lạp vào mùa Thu năm 192 trước Công nguyên<ref name=" Whitehorne, John Edwin George 1994 84 ">{{chú thích sách|author= Whitehorne, John Edwin George|title=Cleopatras|publisher=Routledge|year=1994|page=84|isbn=978-0-415-05806-3|quote=...in the autumn of 192 BC they heard that Antiochus III had crossed over to Greece with his army and declared himself the champion of Greek freedom against Roman domination.}}</ref><ref name=" Wilson. Nigel Guy 2005 58 ">{{chú thích sách|author= Wilson. Nigel Guy|title=Encyclopedia of ancient Greece|publisher=Routledge|year=2006|page=58|isbn=978-0-415-97334-2|quote= ANTIOCHUS III THE GREAT c242-187 BC Seleucid king Antiochus III the Great was the sixth king (223-187 BC) … Antiochus landed on the mainland of Greece posing as a champion of Greek freedom against the Romans (192 BC).}}</ref> nhưng bị đánh bại.
 
== Khởi nghiệp ==
'''Antiochos III''' được thừa hưởng từ vua cha một quốc gia đang rối loạn. Không những vùng [[Tiểu Á]] trở nên độc lập, mà cả các tỉnh phía đông xa xôi cũng mất: [[Bactria|Đại Hạ]] dưới quyền của [[Diodotos I của Bactria|Diodotos I]] người Hy Lạp và [[Người Parthia|Parthia]] dưới quyền cai trị của thủ lĩnh bộ lạc du cư [[Arsaces I của Parthia|Arsaces]]. Sau khi Antiochos lên ngôi, ở [[Người Media|Media]] và [[Iran|Ba Tư]], anh em tổng đốc [[Molon]] và [[Alexandros của Macedonia|Alexandros]] làm loạn.
[[Tập tin:AntiochusIII.jpg|nhỏ|250px|phải|Đồng bạc dập nổi ảnh Antiochos III. Mặt kia có ảnh thần [[Apollo]] ngồi trên cái [[omphalos]]. Dòng chữ Hy Lạp ghi ΒΑΣΙΛΕΩΣ ΑΝΤΙΟΧΟΥ, nghĩa là ''Vua Antiochos''.]]
Antiochos, chịu sự ảnh hưởng tai hại của quan đại thần [[Hermeias]], đã cho phép một cuộc tấn công xứ [[Judea]] thay vì đối mặt với quân nổi loạn. Cuộc tấn công Judea tỏ ra là thất bại và những viên tướng được gửi đi để tấn công [[Molon]] và [[Alexandros của Macedonia|Alexandros]] đã gặp thiên tai. Chỉ tại [[Tiểu Á]], nơi mà chú của vua có thể là [[Achaios]] thay mặt cho vương quốc Seleukos, đã khôi phục lại vị thế của nó và đưa sức mạnh của Pergamon trở lại giới hạn của nó.
 
Vào năm 221 TCN, cuối cùng thì Antiochos đã đến miền đông và cuộc nổi loạn Molon và Alexandros bị đàn áp. Vùng Hạ Media, vốn đã giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Artabazanes, đã phải quy phục vua Seleukos. Để lại giành quyền cai trị từ tay Hermeias, Antiochos đã cho người [[ám sát]] Hermeias và quay trở lại [[Syria]] (năm 220 TCN). Trong khi đó, [[Achaios]] nổi dậy và xưng vương ở Tiểu Á. Tuy nhiên, quân nổi loạn của Achaios không đủ mạnh để tấn công Syria, Antiochos cho rằng ông có thể bỏ qua Achaios lúc này và cố gắng xâm chiếm vùng đất mới là Judea.
Dòng 47:
=== Những cuộc chiến đầu tiên chống lại các triều vua Hy Lạp hóa khác ===
[[Tập tin:AntiochosIII.JPG|nhỏ|phải|220px|<center>Tiền in hình Antiochos III. ([[Bảo tàng Anh Quốc]])<center>]]
Trong các năm 219 TCN và năm 218 TCN, vua Antiochos III phát động chiến tranh, đưa quân đội Seleukos xâm chiếm hầu hết biên giới [[Ai Cập thuộc PtolemaiosHy Lạp|Ai Cập dưới triều vua Ptolemaios]]. Tuy nhiên, vào năm 217 TCN, quân đội Ptolemaios - dưới quyền vua [[Ptolemaios IV Philopator|Ptolemaios IV]] - đã đập tan tác quân của Antiochos III trong [[trận Raphia]]. Chiến bại tại Raphia đã hủy hoại hết thành tựu trước đây của Antiochos III, buộc ông phải tháo chạy tới miền bắc [[Liban]]. Vào năm 216 TCN, Antiochos III tới miền bắc để đối phó với Achaios, và tới năm 214 TCN ông tiến vào [[Sardis]]. Antiochos III đã tính toán việc chiếm đoạt của cải của quân nổi loạn [[Achaios (tướng)|Achaios]] (xem [[Polybius]]) nhưng thành trì cuối cùng đã cầm cự tới năm 213 TCN dưới quyền vợ góa của Achaios là [[Laodice của Pontos|Laodice]], sau đó phiến quân mới đầu hàng.
 
Như vậy sau khi dẹp được bạo loạn ở vùng trung tâm Tiểu Á – triều đình Seleukos dung thứ cho các [[triều đại]] xứ [[Pergamon]], [[Bithynia]] và [[Cappadocia]]. Antiochos III đã chuyển mục tiêu vào việc chinh phục các tỉnh ở miền Tây và miền Bắc xa xôi. Ông bắt buộc vua [[Vương quốc Armenia (cổ đại)|Armenia]] là [[Xerxes của Armenia|Xerxes]] phải chấp nhận phục tùng quyền lực tối cao của mình vào năm 212 TCN. Năm 209 TCN, Antiochos III lại ra quân đánh [[Người Parthia|Parthia]], chiếm được [[Thủ đô|kinh đô]] [[Hecatompylus]] và đẩy họ vào vùng [[Hyrcania]]. Vua Parthia là [[Arsaces II của Parthia|Arsaces II]] phải vội vã cầu hòa.
 
=== Chiến dịch Đại Hạ và cuộc viễn chinh Ấn Độ ===
Năm 209 TCN, Antiochos III đến xứ [[Bactria|Đại Hạ]], nơi vị vua gốc Hy Lạp cũ đã bị lật đổ bởi [[Euthydemus I|Euthydemos I]]. Antiochos lần nữa gặt hái được thành công lớn.<ref>[http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?lookup=Plb.+10.49 Polybius 10.49, Battle of the Arius]</ref> Sau một cuộc vây hãm lừng lẫy ở kinh đô Đại Hạ là [[Bactra]], Euthydemos đã đạt được một nền hòa bình trong vinh dự khi Antiochos hứa gả con gái ông (?) cho con trai Euthydemos là [[Demetrios I của Bactria|Demetrios]].<ref>[http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?lookup=Plb.+11.34 Polybius 11.34 Siege of Bactra]</ref>
 
Kế tiếp, giống như [[Alexandros Đại đế|Alexandros]] năm xưa, Antiochos tiến vào vùng thung lũng [[Kabul]], tiếp tục làm bạn với nhà vua Ấn Độ [[Sophagasenus]] và trở về miền tây bằng đường [[Seistan]] và Kerman (5/206 TCN). Theo [[Polybius]]:<ref>[http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Perseus%3Atext%3A1999.01.0234&query=head%3D%23717 Polybius 11.39]</ref>
Dòng 62:
=== Chiến dịch Ba Tư và Koile Syria ===
[[Tập tin:Seleucid-Empire 200bc.jpg|nhỏ|trái|300px|Vương quốc Seleukos vào năm 200 TCN, (Trước khi vua Antiochos bị người La Mã đánh bại).]]
Từ [[Seleucia bên bờ Tigris]], ông đã tiến hành một cuộc viễn chinh ngắn xuống [[Vịnh Ba Tư]] chống [[người Gerrhae]] bên [[bờ biển Ả Rập]] (205/204 TCN). Vua Antiochos III dường như đã khôi phục được Vương quốc Seleukos ở phía Đông và các chiến tích mang lại cho ông danh hiệu “Đại đế” ([[tiếng Hy Lạp]]: ''Antiochos Megas''). Vào năm 205/204 TCN, vua Ptolemaios IV qua đời, ấu chúa [[Ptolemaios V Epiphanes]] lên ngôi ở Ai Cập. Theo ghi nhận của Polybius thì Antiochos III đã thiết lập một hiệp ước bí mật với vua [[Macedonia]] là [[Philippos V của Macedonia|Philippos V]] về việc phân chia những vùng đất thuộc Ptolemaios. Theo các điều khoản của hiệp ước này, Macedonia được nhận vùng đất của Ai Cập quanh biển Aegean và [[Cyrene]] trong khi Antiochos sẽ có được [[Cộng hòa Síp|Síp]] và Ai Cập.
 
Một lần nữa, Antiochos đã tấn công những tỉnh của triều Ptolemaios ở Kolie Syria và Phoenicia, và vào năm 199 TCN, dường như ông đã chiếm được nó, trước khi những tỉnh này bị tướng Aetolia là Scopas phục hồi cho triều Ptolemaios. Tới năm 198 TCN, Antiochos đại phá quân của Scopas trong [[trận Panium]] gần thượng nguồn [[sông Jordan]], một trận chiến được coi là dấu hiệu đánh dấu sự kết thúc của sự cai trị của triều đình Ptolemaios ở Judea.
Dòng 68:
== Chiến tranh chống La Mã ==
{{Chính|Chiến tranh Syria - La Mã}}
Tiếp theo đó, Đại đế Antiochos III kéo đại quân đến Tiểu Á để chiếm lấy các thị trấn ven biển ở các thuộc địa vùng hải ngoại của triều đình Ptolemaios và các thành bagn Hy Lạp độc lập. Pharaon Ptolemaios V phải cầu cứu [[Cộng hòa La Mã]], dẫn tới cuộc chiến tranh [[Chiến tranh Syria - La Mã|giữa Đại đế Antiochos II và người La Mã]], từ [[Smyrna]] và [[Lampsacus]] khiếu nại đến nước cộng hòa ở phía tây, và đã trở nên căng thẳng hơn sau khi Đại đế Antiochos III chiếm được xứ [[Thracia|Thrace]]. Việc Quân đội La Mã rút khỏi Hy Lạp đã tạo cơ hội cho Antiochos III, trong thời gian này, vị danh tướng [[Hannibal]] đang lánh nạn trong triều đình của ông.
 
Vào năm 192 TCN, ông tiến hành chinh phạt Hy Lạp cùng 10.000 quân, và được bầu làm Tổng chỉ huy của người Aetolia. Tuy nhiên, vào năm 191 TCN, Quân đội La Mã dưới sự chỉ huy của [[Acilius Glabrio]] chặn đứng quân của ông tại [[Trận Thermopylae (191 TCN)|Thermopylae]] và buộc ông rút về châu Á. Cộng hòa La Mã, vốn đang ở thế thượng phong, lại ra quân tấn công vua Antiochos III ở Tiểu Á, và quân Seleukos đại bại trong tay [[Scipio Asiaticus]] tại [[Trận Magnesia (190 TCN)|Magnesia ad Sipylum]] (190 TCN), sau khi quân La Mã đánh bại [[Hannibal]] khi đối mặt trên biển, chiếm được Tiểu Á.
 
Với [[Hiệp ước Apamea]] (188 TCN), vua nhà Seleukos phải từ bỏ tất cả các quốc gia phía bắc [[dãy núi Taurus|dãy Taurus]], mà [[Cộng hòa La Mã]] phân chia cho các đồng minh của mình; và phải bồi thường một khoản chiến phí không lồ. Hậu quả của Hiệp ước này, là tai họa cho sức mạnh của Vương quốc Seleukos, các tỉnh ly khai đã bị vua Antiochos III chiếm lại, đã công khai nền độc lập của họ. Không những bị Cộng hòa La Mã buộc phải nộp thuế nặng và chiếm đất, Antiochos III còn phải gởi nhiều con tin cho họ. Trong số những con tin này có cả con trai của nhà vua.<ref name="dunglac">[http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=77&ia=1146 Tiên tri Daniel và bốn đế quốc]</ref>
 
== Cái chết của Antiochos III ==
Chiến tranh chống La Mã kết thúc, nhà vua buồn bã quay về kinh thành [[Antioch]]. Antiochos III - không thể nộp được sưu cao thuế nặng cho nước Cộng hòa La Mã - đã phát động một cuộc đông chinh tới Luristan. Tại đây. Ông cướp bóc đền Ba'al ở Elymaïs, Ba Tư. Sự phá hoại này đã khiến cho người dân địa phương trở nên căm ghét ông, họ bèn sát hại ông vào năm 187 TCN. Theo câu 19 trong đoạn 11 sách Daniel ("Daniel 11:1-35"), hành động này đã dẫn đến "một kết thúc chẳng vinh dự" của Antiochos Đại đế. Vương quốc Seleukos mà ông để lại rơi vào tay con trai ông là [[Seleucus IV Philopator|Seleukos IV Philopator]], và người vợ của ông là Laodice.<ref name="dunglac"/>
 
Đại đế Antiochos III kết hôn lần đầu tiên với Laodice III, người có họ hàng bên nội với ông. Những người con của họ là [[Antiochos (con của Antiochos Đại Đế)|Antiochos]], [[Seleukos IV Philopator|Seleucus IV Philopator]], Ardys, một công chúa vô danh, người đã đính hôn với vua Bactria [[Demetrios I của Bactria|Demetrios I]], [[Laodice IV]], [[Cleopatra I Syra]], [[Antiochis]] và [[Antiochos IV Epiphanes|Antiochus IV Epiphanes]] có tên khai sinh là Mithridates. Hoàng hậu [[Laodice III]] mất khoảng năm 191 TCN. Sau đó, Đại đế Antiochos III lại kết hôn với [[Euboea của Chalcis]], nhưng ông không có con với người này.<ref>http://www.livius.org/am-ao/antiochus/antiochus_iii.html</ref>
 
{{s-start}}
{{s-hou|[[Vương quốc Seleukos|Nhà Seleukos]]||241 TCN|187 TCN}}
{{s-bef|before=[[Seleukos III Keraunos]]}}
{{s-ttl|title=[[Danh sách vua Ba Tư|Vua Seleukos]]|years=223–187 TCN}}
{{s-aft|after=[[Seleucus IV Philopator|Seleukos IV Philopator]]}}
{{end}}