Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngũ Hồ thập lục quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuanUt-Bot! (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: Phía đông → phía đông (2), phía Tây → phía tây (8), Phía nam → phía nam (4), Phía bắc → phía bắc
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 60:
Một bộ tướng của cha con Lưu Uyên - Lưu Thông là [[Thạch Lặc]], người tộc Yết, trong quá trình giúp [[Hán Triệu]] diệt nhà Tấn, đã tranh thủ phát triển thế lực riêng.
 
Sau khi diệt được Tây Tấn, Lưu Thông không chú tâm đến chính sự, chỉ chơi bời hưởng lạc. Việc triều đình bị Lặc Chuẩn thao túng. Năm 318, Thông quá ham tửu sắc mà chết, con là [[Lưu Xán]] lên thay. Lặc Chuẩn nắm quyền lấn át Xán, lộng hành phế truất giết Xán, tàn sát con cháu Lưu Uyên và Lưu Thông. Một người con nuôi của Lưu Uyên là [[Lưu ĐịchDiệu]] (hay Diệu) đang cầm quân ngoài mặt trận, kéo về kinh đô [[Bình Dương]] ([[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]]) diệt Lặc Chuẩn. Lưu Địch được một số lớn đại thần ủng hộ đưa lên ngôi đế, đặt quốc hiệu là Triệu, còn gọi là Tiền Triệu. Lúc đó các tộc Hồ tràn xuống trung nguyên rất nhiều. Lưu Địch lên ngôi, bình định dẹp hết sự phản kháng của các dân tộc thiểu số như Chi, Khương, Ba, Yết. Để củng cố quyền thống trị, ông chia rẽ tộc Hồ và Hán và lợi dụng một số phần tử thượng tầng dân tộc để cai trị dân tộc ấy.
 
Cùng lúc Lưu Địch diệt Lặc Chuẩn, tướng Thạch Lặc cầm quân ở ngoài cũng ra mặt xưng vương, ly khai Tiền Triệu, cũng đặt tên nước là Triệu, sử gọi là [[Hậu Triệu]].