Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Viên Chiếu”

tu sĩ, nhà lãnh đạo Phật giáo Đại Việt thời Lý (999–1090)
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Nội dung
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 04:23, ngày 25 tháng 12 năm 2005

Thiền sư Viên Chiếu tức Mai Trực (999- 1090) là một trong 7 vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông, sư tu tại chùa Cát Tường, kinh đô Thăng Long. Sư là người Long Đàm, Phúc Đường, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội và là con người anh thái hậu Linh Cảm (mẹ của vua Lý Thánh Tông).

Cơ duyên và hành trạng

Thuở nhỏ sư là người thông minh, hiếu học. Một hôm, nghe đồn vị trưởng lão tại chùa Mật Nghiêm xem tướng giỏi, nên đến xem thử cho biết. Vị trưởng lão nhìn kỹ rồi bảo: "Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó bảo toàn".

Sư cảm ngộ, giã từ cha mẹ, đến núi Ba Tiêu với thiền sư Định Hương, hầu hạ nhiều năm, nghiên cứu Thiền học, Sư thường trì kinh Viên giác, rõ thấy được phép Tam quán[1].

Một tối trong lúc thiền định, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy, những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết, sâu rõ ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát.

Về sau, Sư tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tìm đến tham vấn rất đông.

Có vị tăng hỏi: Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?

Sư đáp:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Dịch thơ:
Trùng dương cúc nở dưới rào
Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.

Tăng thưa: Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra?

Sư đáp:
Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh.
Dịch thơ:
Ngày thì vầng nhật chiếu
Đêm đến ánh trăng soi.

Tăng hỏi: Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?

Sư đáp:
Bất thận thủy bàn kình mãn khứ

Nhất tao tha điệt hối hà chi.

Dịch thơ:
Bưng thau nước đầy không chú ý
Một lúc sẩy chân hối ích gì.

Tăng hỏi: Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Sau khi chết đi về đâu?

Sư đáp:
Manh qui xuyên thạch bích
Ba miết thướng cao sơn.
Dịch thơ:
Rùa mù dùi vách đá
Trạnh què trèo núi cao

Tăng hỏi: Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; thế nào là chân?

Sư đáp:
Vũ trích nham hoa thần nữ lệ
Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.
Dịch thơ:
Hoa núi mưa sa, thần nữ khóc
Tre sân gió thổi, Bá Nha đờn.

Sư có soạn “Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn”, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ thần sang Trung Hoa dâng vua Triết Tông nhà Tống. Vua Triết Tông trao cho các vị Cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc xem. Xem xong, các ngài tâu vua Tống rằng: - Đây là nhục thân Bồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào. Vua Tống liền sắc sao lại một bản, bản chính trả lại cho vua ta. Sứ thần về kinh tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng Sư.

Vào một ngày tháng chín năm Canh ngọ Quảng Hựu thứ sáu (1090), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: "Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:

Kệ rằng:
Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
Dịch thơ:
Thân như tường vách đã lung lay
Đau đáu người đời luống xót thay.
Nếu đạt tâm không, không tướng sắc
Sắc không ẩn hiện, mặc vần xoay.

Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ.

Nguyên bản chữ Hán

Tác phẩm

  • -Tán Viên Giác Kinh.
  • -Thập Nhị Bồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.
  • -Tham Đồ Hiển Quyết 1 quyển.
  • -Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.

Chú thích

  1. ^ Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna).

Tham khảo

Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán