Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lăng Đồng Khánh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
bỏ nhận định
Dòng 1:
'''Lăng Ðồng Khánh''' - còn gọi làhay '''Tư Lăng''', là một di tích trong [[quần thể di tích cố đô Huế được [[UNESCO]] công nhậnđâydinơi sảnan văntáng hóavua thế[[Đồng giới ngày 11-12-1993. Lăng nằm tại xã Thủy XuânKhánh]], thành phố Huế -lăng tọa lạc giữa một vùng quê tĩnh mịch thuộc [[làng Cư Sĩ]], xã [[Dương Xuân]] ngày trước (nay là thôn [[Thượng Hai]], xã [[Thủy Xuân]], thành phố [[Huế]]). Ông vua vắn số này yên nghỉ giữa một vị thế nồng ấm tình cảm gia đình. Chung quanh ông là lăng mộ của bà con quyến thuộc: lăng Tự Ðức (bác ruột và là cha nuôi), lăng [[Kiên Thái Vương]] (cha ruột), lăng bà [[Từ Cung]] (con dâu), lăng bà [[Thánh Cung]] (vợ). Xa hơn là [[lăng Tá Thiên Nhân]] Hoàng hậu (bà cố nội), [[lăng Thiệu Trị]] (ông nội)... Âu đó cũng là sự bù đắp cho vị vua kém may mắn. Lăng hiện nay không bán vé và đang bị xuống cấp nghiêm trọng.
 
== Lịch sử ==
[[Ðồng Khánh]] tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), người sinh thành 3 vị vua: [[Kiến Phúc]] (1883-1884), [[Hàm Nghi]] (1884-1885) và [[Ðồng Khánh]] (1886-1888). Ca dao [[Huế]] từng nói về vương nghiệp của ba ông vua này:
:''Một nhà sinh đặng ba vua''
 
*:''MộtVua nhàcòn, sinhvua đặng bamất, vua thua chạy dài.''
''Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài.''
 
Ðồng Khánh là anh cả nhưng lại được đưa lên ngai vàng sau cùng. Bấy giờ, khi vua [[Hiệp Hòa]] chết (1883), [[Tôn Thất Thuyết]] và [[Nguyễn Văn Tường]] lập Hoàng tử Ưng Ðăng (con nuôi vua [[Tự Ðức]], em thứ hai của Ưng Ðường) lên làm vua, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Ở ngôi được 8 tháng thì [[Kiến Phúc]] băng hà, em trai là Ưng Lịch được kế vị, đặt niên hiệu Hàm Nghi. [[Hàm Nghi]] trị vì được một năm thì kinh đô thất thủ (5-7-1885), phải rời ngai vàng theo Tôn Thất Thuyết ra Sơn phòng Tân Sở, phát chiếu [[Cần Vương]] kháng [[Pháp]]. Triều thần và chính phủ bảo hộ đưa anh trai Hàm Nghi vào ngai vàng đang để trống, đó là Ðồng Khánh. Ðồng Khánh làm vua được ba năm thì băng hà vào giữa tuổi 25. Nhà vua không ngờ mình chết sớm như vậy nên chưa hề lo nghĩ đến sinh phần mai sau của mình. Lăng Ðồng Khánh hiện hữu, thực chất là nơi vua Ðồng Khánh tá túc vĩnh viễn trong điện thờ thân phụ của ông. Sự ra đời của khu lăng tẩm này khá nhiều trắc trở.
 
Sau khi lên ngôi, Ðồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở [[Cư Sĩ]] chưa có điện thờ nên sai Bộ Công dựng điện [[Truy Tư ]] cạnh đó để thờ cha. [[Ðiện Truy Tư]] khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó hoàn tất về căn bản. Ðồng Khánh rước bài vị của [[Kiên Thái Vương]] về thờ trong điện, đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh công trình. Thế nhưng, trong khi công việc kiến trúc đang tiếp tục thì Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm [[Ngưng Hy]] để thờ vua Ðồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an táng đơn giản trên quả đồi có tên là [[Hộ Thuận Sơn]], cách điện Ngưng Hy 30m về phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là [[Tư Lăng]].
 
Tháng 8 năm 1916, sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Ðịnh (1916-1925), con trai vua Ðồng Khánh đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ [[Bái Ðình]], [[Bi Ðình ]] đến [[Bửu Thành]] và [[Huyền Cung]] đều được kiến thiết dưới thời Khải Ðịnh, đến tháng 7-1917 mới hoàn thành. Riêng điện Ngưng Hy cùng '''Tả''', '''Hữu Tùng Viện'''; '''Tả''', '''Hữu Tùng Tự''' tiếp tục được tu sửa cho đến năm 1923.
 
Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Ðồng Khánh mang dấu ấn hai trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Nếu phong cách cổ truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc [[lăng Tự Ðức]] và phong cách hiện đại được thể hiện rõ nét trong kiến trúc [[lăng Khải Ðịnh ]]sau này thì lăng Ðồng Khánh là một bước trung chuyển. Sự tồn tại khá biệt lập của hai khu vực lăng và tẩm càng làm rõ thêm điều này. Ở khu vực tẩm điện, nhìn tổng thể, các công trình vẫn mang dáng xưa: lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc ở chính điện và các nhà cửa phụ thuộc, vẫn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ linh, tứ quý... quen thuộc. Ðáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn được coi là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn mài nổi tiếng của [[Việt Nam]]. Trên các đố bản ở nội thất là hàng loạt các ô hộc trang trí các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước... bằng sơn mài, ghép khảm và chạm nổi. Ðặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh trong điển tích Nhị thập tứ hiếu kể về những tấm gương hiếu thảo ở [[Trung Hoa]]. Phải chăng do làm vua trong một xã hội mà trật tự, kỷ cương Nho giáo trở nên lỏng lẻo, thiết chế quân, sư, phụ không được tôn trọng, luân lý bị đảo lộn, Ðồng Khánh mong mỏi tái lập một xã hội với đầy đủ tôn ti phong kiến cũ và bắt đầu từ ý nghĩa giáo dục của những bức tranh đó ? Ðiều này khó có thể thực hiện được khi bản thân nhà vua cũng chỉ là cái bóng trên ngai vàng! Ngay cả việc xuất hiện những bức phù điêu bằng đất nung trên các cổ diêm, bờ nóc, bờ quyết của điện Ngưng Hy với các đồ án trang trí rất dân dã như ngư ông đắc lợi, gà chọi, cầm- kỳ-thi-tưủ, hoa quả, động vật... cũng phần nào minh chứng cho điều này. Bởi lẽ, trong lăng tẩm các vua tiền nhiệm, hoàn toàn vắng bóng loại hình sản phẩm bằng đất nung cũng như các đồ án trang trí dân gian vì giai cấp phong kiến coi đó là tầm thường, xa lạ với nghệ thuật cung đình. Chỉ đến khi thiết chế xã hội bớt khắc khe thì người nghệ sĩ dân gian mới có thể lồng vào trong nền mỹ thuật cung đình những sáng tạo của giai cấp mình.
Bản thân điện [[Ngưng Hy]] với cấu trúc chữ tam phát triển từ kiến trúc trùng thiềm điệp ốc cũng là một nét lạ. Tuy nhiên việc xuất hiện hệ thống cửa kính nhiều màu và hai bức tranh cổ mô tả cuộc chiến tranh Pháp - Phổ thời Napoléon cùng hàng loạt hiện vật như ba-toong, lọ nước hoa bên cạnh các hiện vật cổ tạo cho du khách một cảm giác lai căng, khó chịu. Ngược lại với phong cách truyền thống trong kiến trúc khu vực tẩm điện, kiến trúc lăng mộ hầu như Âu hóa hoàn toàn, từ đặc trưng kiến trúc, mô típ trang trí đến vật liệu xây dựng. Bi Ðình là sự biến thể của kiến trúc Roman pha trộn với kiến trúc Á Ðông. Tượng quan viên cao, gầy đắp bằng xi măng và gạch thay cho tượng đá, gạch carô thế chỗ gạch [[Bát Tràng]]... Nét [[Á Ðông]], lưu giữ một cách hiếm hoi trong khu vực mộ, có lẽ là những chữ thọ trang trí trên bình phong trước mộ để cầu mong sự trường tồn trong vương nghiệp của vua ở âm phần, bù lại chuỗi ngày làm vua ngắn ngủi trên dương thế. Phía sau ngôi mộ có hai con cá chép đắp bằng xi măng, bên trên có hai con rồng chầu mặt trời như muốn nhắn gửi với hậu thế rằng quá trình trị vì của vua cũng gian nan, vất vả như cá chép hóa rồng phải vượt qua vũ môn vậy.
 
Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Ðồng Khánh mang dấu ấn hai trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Nếu phong cách cổ truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc [[lăng Tự Ðức]] và phong cách hiện đại được thể hiện rõ nét trong kiến trúc [[lăng Khải Ðịnh ]] sau này thì lăng Ðồng Khánh là một bước trung chuyển. Sự tồn tại khá biệt lập của hai khu vực lăng và tẩm càng làm rõ thêm điều này. Ở khu vực tẩm điện, nhìn tổng thể, các công trình vẫn mang dáng xưa: lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc ở chính điện và các nhà cửa phụ thuộc, vẫn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ linh, tứ quý... quen thuộc. Ðáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn được coi là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn mài nổi tiếng của [[Việt Nam]]. Trên các đố bản ở nội thất là hàng loạt các ô hộc trang trí các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước... bằng sơn mài, ghép khảm và chạm nổi. Ðặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh trong điển tích Nhị thập tứ hiếu kể về những tấm gương hiếu thảo ở [[Trung Hoa]]. Phải chăng do làm vua trong một xã hội mà trật tự, kỷ cương Nho giáo trở nên lỏng lẻo, thiết chế quân, sư, phụ không được tôn trọng, luân lý bị đảo lộn, Ðồng Khánh mong mỏi tái lập một xã hội với đầy đủ tôn ti phong kiến cũ và bắt đầu từ ý nghĩa giáo dục của những bức tranh đó ? Ðiều này khó có thể thực hiện được khi bản thân nhà vua cũng chỉ là cái bóng trên ngai vàng! Ngay cả việc xuất hiện những bức phù điêu bằng đất nung trên các cổ diêm, bờ nóc, bờ quyết của điện Ngưng Hy với các đồ án trang trí rất dân dã như ngư ông đắc lợi, gà chọi, cầm- kỳ-thi-tưủ, hoa quả, động vật... cũng phần nào minh chứng cho điều này. Bởi lẽ, trong lăng tẩm các vua tiền nhiệm, hoàn toàn vắng bóng loại hình sản phẩm bằng đất nung cũng như các đồ án trang trí dân gian vì giai cấp phong kiến coi đó là tầm thường, xa lạ với nghệ thuật cung đình. Chỉ đến khi thiết chế xã hội bớt khắc khe thì người nghệ sĩ dân gian mới có thể lồng vào trong nền mỹ thuật cung đình những sáng tạo của giai cấp mình.
== Quá trình xây Lăng ==
Quá trình xây dựng lăng Đồng Khánh khá phức tạp. Nhà vua không ngờ mình chết sớm giữa lúc mới 25 tuổi sau khi tại vị chỉ 3 năm (1886-1888), cho nên chưa nghĩa đến việc xây lăng. Nhìn chung, côngCông việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối đời vua (1888: khu vực điên Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm thêm từ năm đầu thời [[Thánh Thái]] (1889: khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915,1917,1921,1923).
 
Trên thực tế, công việc kiến trúc lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt trong một giai đoạn lịch sử dài ngót 35 năm (1888-1923) qua 4 thời vua Đồng Khánh, [[Thành Thái]], [[Duy Tân]] và [[Khải Định]].
Quá trình xây dựng lăng Đồng Khánh khá phức tạp. Nhà vua không ngờ mình chết sớm giữa lúc mới 25 tuổi sau khi tại vị chỉ 3 năm (1886-1888), cho nên chưa nghĩa đến việc xây lăng. Nhìn chung, công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối đời vua (1888: khu vực điên Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm thêm từ năm đầu thời [[Thánh Thái]] (1889: khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915,1917,1921,1923).
 
*Về mô thức kiến trúc, lăng vua Đồng Khánh không khác gì các lăng vua Nguyễn trước đó, ở cả hai khu vực lăng và tẩm có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông - nam, ngay trước mặtmắt có đào ao hồ bán nguyệtnguyên để làm yếuyấu tố “minh đường”, ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 kmkim được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về hướng đông - đông nam, tiếntiền án của nó là núi [[Thiên Thai]]...Nếu Tươngtượng các quan viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng vôivoi gạch với dáng cao, nhưngngưng gầy.
Qua lịch sử xây dựng trên đây, chúng ta thấy rõ ý đồ kiến trúc lăng Đồng Khánh không phải do chính nhà vua đưa ra, và tổng thể măt bằng kiến trúc lăng tẩm ấy đã không được lựa chọn quy hoạch và thiết kế trong cùng một lượt ngay từ đầu.
 
Công trình kiến trúc nổi tiếng bật nhất về mặt mỹ thuật ở lăng Đồng Khánh là điện Ngưng Hy. Nó có giá trị cao về kiến trúc, hội hoạ và trang trí. Điện ngưng Hy là một toà nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế, nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một toà nhà thứ ba nữa (nhà hậu). Thành ra ở đây có đến 3 hệ thống vì kéo được ghép lại với nhau theo hình chữ “tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa. Mặt bằng thực tế của toà nhà rất rộng, nhưng trông vẫn gọn gàng xinh xắn, có lẽ nhờ cách trang trí ở nội ngoài thất.
Trên thực tế, công việc kiến trúc lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt trong một giai đoạn lịch sử dài ngót 35 năm (1888-1923) qua 4 thời vua Đồng Khánh, [[Thành Thái]], [[Duy Tân]] và [[Khải Định]]. Trong giai đoạn lịch sử ấy. [[Việt Nam]] đã thực sự mất hết chủ quyền vào tay thực dân Pháp. Nền văn hoá và nghệ thuật dân tộc không còn giữ được tính thuần tuý như trước nữa. Vua Đồng Khánh là người đã từng cho chụp ảnh mình để chưng trong các cung điện, đã từng dùng nước hoa “Eau de cologne” bình xịt dầu thơm, đồng hồ báo thức, rượu chát, rượu bai sản xuất tại Pháp. Cho nên khi thấy ở lăng Đồng Khánh, nền mỹ thuật thuần tuý Á Đông đã phôi pha phần nào, chúng ta cũng không lấy gì làm lạ.
 
Vật liệu trang trí trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm, đầu hồi, đều làm bằng [[pháp lam]] ngũ sắc hoặc đất nung tráng men màu. Được phân khoản trong từng ô hộc, hàng trăm hình ảnh và câu thơ xen kẽ nhau chạy quanh trên cả toà nhà. Ở đó người xưa đã diễn tả rát nhiều sinh hoạt cổ truyền và cảnh vật dân gian như ngư tiều canh mục, cầm kỳ thi tửu, ngư ông đắc lợi...con gà, con rắn, cắc kè, voi, ngựa, các thứ động vật và cây cỏ thông thường khác. Có giá trị đặc biệt nhất ở đây là loại đất nung tráng men màu. Loại này được phát triển mạnh ở điện Ngưng Hy để sau đó ít thấy dùng trong trang trí cung điện và lăng tẩm. Đây là một loại hình tạo tác thủ công mỹ nghệ đặc sắc và quý hiếm của địa phương.
Chẳng hạn trong khu vực lăng mộ, từ Bái đình, qua Bi đình các tầng sân tế, đến Bửu thành, người ta đã sử dụng những vật liệu mới như xi măng, gạch ca rô, gạch hoa tráng men màu, hoặc chung quanh điện Ngưng Hy, người ta đã dùng kính màu để lồng vào hệ thống cửa bảng khoa và cửa sổ.
 
Bên trong điện, các nghệ nhân đầu thế kỷ đã tạo ra được một không gian nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc viết vẽ lên các panô và hệ thống kiên ba đồ bản. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng sơn son thép vàng. Màu sắc mọi hình ảnh trang trí đều còn đậm đà, chói lọi. Một loại hình ảnh trang trí độc đáo ở nôi thất Ngưng Hy là vẻ cảnh sinh hoạt của 24 câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu”. Đề tài trang trí ấy chỉ thấy được dùng ở đây mà thôi.
Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh chẳng có gì khác lạ đáng kể so với các lăng trước đó. Ở cả hai khu vực lăng và tẩm có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yấu tố “minh đường” và ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 kim được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi [[Thiên Thai]]...
 
Nếu tượng các quan viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng voi gạch với dáng cao ngưng gầy.
 
Công trình kiến trúc nổi tiếng bật nhất về mặt mỹ thuật ở lăng Đồng Khánh là điện Ngưng Hy. Nó có giá trị cao về kiến trúc, hội hoạ và trang trí. Điện ngưng Hy là một toà nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế, nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một toà nhà thứ ba nữa (nhà hậu). Thành ra ở đây có đến 3 hệ thống vì kéo được ghép lại với nhau theo hình chữ “tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa. Mặt bằng thực tế của toà nhà rất rộng, nhưng trông vẫn gọn gàng xinh xắn, có lẽ nhờ cách trang trí ở nội ngoài thất.
 
Vật liệu trang trí trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm, đầu hồi, đều làm bằng pháp lam ngũ sắc hoặc đất nung tráng men màu. Được phân khoản trong từng ô hộc, hàng trăm hình ảnh và câu thơ xen kẽ nhau chạy quanh trên cả toà nhà. Ở đó người xưa đã diễn tả rát nhiều sinh hoạt cổ truyền và cảnh vật dân gian như ngư tiều canh mục, cầm kỳ thi tửu, ngư ông đắc lợi...con gà, con rắn, cắc kè, voi, ngựa, các thứ động vật và cây cỏ thông thường khác. Có giá trị đặc biệt nhất ở đây là loại đất nung tráng men màu. Loại này được phát triển mạnh ở điện Ngưng Hy để sau đó ít thấy dùng trong trang trí cung điện và lăng tẩm. Đây là một loại hình tạo tác thủ công mỹ nghệ đặc sắc và quý hiếm của địa phương.
 
Bên trong điện, các nghệ nhân đầu thế kỷ đã tạo ra được một không gian nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc viết vẽ lên các panô và hệ thống kiên ba đồ bản. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng sơn son thép vàng. Màu sắc mọi hình ảnh trang trí đều còn đậm đà, chói lọi. Một loại hình ảnh trang trí độc đáo ở nôi thất Ngưng Hy là vẻ cảnh sinh hoạt của 24 câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu”. Đề tài trang trí ấy chỉ thấy được dùng ở đây mà thôi.
 
Khi nhận xét chung về lăng Đồng Khánh, người ta thường khen rằng điện Ngưng Hy đã bảo lưu được nền nghệ thuật sơn mài truyền thống của dân tộc, phát huy tối đa những hình ảnh nồi bằng đất nung tráng men mào vào trong trang trí ngoại thất để có thể chịu đựng với nắng mưa, và người ta cũng thường khen rằng tổng thể kiến trúc lăng này nhỏ gọn, xinh đẹp, giản đơn, thích hợp với bối cảnh thôn trang điền dã ở xung quanh.
 
Nhưng dù sao, nó đã mang ít nhiều dấu ấn của lịch sử và văn hoá của Việt Nam bấy giờ.
 
== Giá trị ==
 
*Nhìn chung, lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử nên nền kiến trúc [[Á Ðông]] phần nào phôi pha, mờ nhạt để chuyển tiếp đến kiến trúc hiện đại. Người nghệ sĩ kiến tạo khu lăng tẩm này bị đặt giữa một sự chọn lựa và tiếp nhận: kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, họ đã thành công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.
 
*Về mô thức kiến trúc, lăng vua Đồng Khánh không khác gì các lăng vua Nguyễn trước đó, ở cả hai khu vực lăng và tẩm có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông - nam, ngay trước mặt có đào ao hồ bán nguyệt để làm yếu tố “minh đường”, ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ quay về hướng đông - đông nam, tiến án là núi Thiên Thai. Tương quan viên ở lăng Đồng Khánh được đắp bằng vôi gạch với dáng cao, nhưng gầy.
 
*Công trình kiến trúc nổi bật ở lăng vua Đồng Khánh là điện Ngưng Hy, có giá trị cao về kiến trúc, hội họa và trang trí. Đây là một tòa nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế, nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một nhà thứ ba, nhà hậu. Vì vậy, ở đây có ba hệ thống vì kèo được ghép lại với nhau theo hình chữ “tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa.
 
*Bên trong điện là không gian nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc viết vẽ lên các pa-nô và hệ thống liên ba đố bản. Một loạt hình ảnh trang trí độc đáo ở nội điện Ngưng Hy là vẽ cảnh sinh hoạt của 24 câu chuyện trong “nhị thập tứ hiếu”. Điện Ngưng Hy đã bảo lưu được nền nghệ thuật sơn mài truyền thống của dân tộc, phát huy tối đa những hình ảnh nổi bằng đất nung tráng men màu vào trong trang trí ngoại thất để có thể chịu đựng nắng mưa xứ Huế. Và cũng là lăng mở đầu cho sự pha trộn hai nền kiến trúc nghệ thuật [[Á - Âu]].
 
== Xem Thêm ==
 
* [[ Vua Đồng Khánh ]]
 
== Tham Khảo ==
 
*Nhìn chung, lăngLăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử nênViệt nềnNam kiếnnên trúc [[Á Ðông]] phần nào phôi pha, mờ nhạt để chuyển tiếp đến kiếnkiếm trúc hiện đại. Người nghệ sĩ kiến tạo khu lăng tẩmđan này bị đặtxem giữa một sự chọn lựa và tiếp nhận: kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, họkiến trúc lăng đã thành công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.
== GiáXem trịthêm ==
* [[ Vua Đồng Khánh ]]
== XemTham Thêmkhảo ==
* Bửu Ngôn - Du lịch 3 miền - Nhà xuất bản Văn Nghệ .
* Tài liệu của Trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế .
 
== Liên kết ngoài ==
* http://www.hueworldheritage.org.vn/quanthe/ngoaikinhthanh/Dongkhanh.asp