Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Đế quốc La Mã”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Robot: Sửa đổi hướng |
n clean up using AWB |
||
Dòng 172:
Cuộc nội chiến sau đó vẫn tiếp tục và chứng kiến Constantine lần lượt đánh bại các đối thủ khác. Năm 324, ông đánh bại đối thủ cuối cùng là người em rể [[Licinius]] để thống nhất Đế chế.<ref>MacMullen, ''Constantine''.</ref> Ngoài ra, trong triều đại của mình, Constantine cũng có những thắng lợi trước người [[người Frank|Frank]], [[Người Alemanni|Alamanni]], [[Visigoth]] và [[người Sarmatia|Sarmatia]], thậm chí là tổ chức tái định cư lại một phần Dacia (bị bỏ rơi từ thế kỷ 3).
Hai việc làm đáng nhớ nhất dưới thời Constantine là cải sang đạo Thiên chúa và phát triển thành phố [[Constantinopolis|
Năm 324, Constantine tuyên bố quyết định biến Byzantium thành Nova Roma (Tân La Mã) và vào 11 tháng 5, 330, ông dời đô từ thành La Mã về Tân La Mã. Thành phố được đặt tên lại là
Sau khi Constantine I qua đời, Đế chế lại bị chia ba bởi ba người con của ông. Tây La Mã bị chia đôi giữa con trưởng là [[Constantine II]] và con út là [[Constans]]. Đông La Mã cùng Constantinople thuộc về con thứ, [[Constantius II]]. Cuồi cùng thì Constantius II đánh bại được các anh em mình, thế nhưng tới năm 360 thì sự thống trị của ông lại bị lung lay. Trước đó ông đã phong cho [[Julianus (Hoàng đế)|Julian]] (Flavius Claudius Julianus) làm Caesar ở Tây La Mã vào năm 355. Trong 5 năm sau đó, Julian giành nhiều thắng lợi trên chiến trường trước các tộc German, bao gồm cả người Alamanni. Khi Constantius hạ lệnh cho các quân đoàn xứ Gaul phải sang phía đông để tiếp viện cho cuộc chiến với Ba Tư, họ đã nổi dậy và tôn chỉ huy của mình là Julian lên làm Augustus. Vào lúc hai vị hoàng đế đều chưa muốn tiến quân đánh nhau thì Constantius đã qua đời vì bệnh vào tháng 11 năm 361, khiến đất nước tránh được một cuộc nội chiến.
|