Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nghiên cứu văn học”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
viết tiếp
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
Những mầm mống của các tri thức nghệ thuật học và nghiên cứu văn học có từ xa xưa, dưới dạng một số ý niệm trong thần thoại cổ đại<ref name="lainguyenan">''150 thuật ngữ văn học'', Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2003, trang 224-228.</ref>. Những nhận xét đầu tiên về nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, có thể kể đến trong [[kinh Vệ-đà]] (Ấn Độ, thế kỷ 10-2 TCN), [[Kinh thi]] (Trung Quốc, thế kỷ 9-6 TCN), [[Iliade và Odysses]] (cổ Hy Lạp, thế kỷ 8-7 TCN).
 
Ở [[châu Âu]], các quan niệm đầu tiên về nghệ thuật và văn học được đề xướng bởi các nhà tư tưởng cổ Hy Lạp (như [[Platon]], [[Aristote]]), cổ La Mã (như [[Horatius]]). Khâu nối giữa nghiên cứu văn học của thời cổ đại Hy-La và thời cận đại châu Âu có thể kể đến nền văn học [[Byzance]] va văn học Latinh của các dân tộc Tây Âu<ref name="lainguyenan"/>. Nghiên cứu văn học thời trung đại thiên về hướng thi tịch học và bình chú, đồng thời cũng phát triển về việc nghiên cứu các lĩnh vực thi học, văn hùng biện, âm luật. Trong thời Phục Hưng, nghiên cứu văn học đi theo hướng xây dựng những hệ thi pháp đáp ứng các điều kiện địa phương và dân tộc khác nhau. Thời đại của chủ nghĩa cổ điển châu Âu, nghiên cứu văn học gắn với xu hướng hệ thống hóa các luật lệ của nghệ thuật, đồng thời gắn với tính chất quy phạm của lý luận nghệ thuật, đặc biệt với cuốn ''[[Nghệ thuật thi ca]]'' (1674) của [[Boileau]]. Thế kỷ 17-18 nổi lên các xu hướng chống quy phạm trong cách hiểu các loại hình và loại thể văn học, sự trỗi dậy của chủ nghĩa lãng mạn mà tiêu biểu là cuốn lý luận ''[[Kịch lý Hamburg]]'' (1768-1769) của [[Lessing]]. Thế kỷ 19 quan điểm lịch sử xuất hiện đối kháng với xu hướng quy phạm, tạo nên một thời kỳ xây dựng những cuốn văn học sử như ''Lịch sử văn học Italia (1772-1782) của J. Tiraboski, ''Văn học cổ đại và cận đại'' (1799-1805) của J. Lagarp.
 
Từ nửa đầu thế kỷ 19 trở đi, trong nghiên cứu văn học châu Âu bắt đầu hình thành các trào lưu, trường phái, với ý thức về phương pháp luận và tư tưởng nghiên cứu<ref name="lainguyenan"/>. Đáng chú ý là các [[trường phái thần thoại]] với anh em J. Grimm, Đức; [[phương pháp tiểu sử]] với Sainte-Beuve, Pháp}; [[trường phái văn hóa lịch sử]] với H. Taine, Pháp); khuynh hướng xã hội dân chủ trong bình luận văn học với Belinski, Tchernyshevski, Dobroliubov, Nga; [[trường phái tâm lý]] với W. Wundt, [[văn học so sánh]] với F. Baldensperger, Van Tieghem v.v.
 
Sang thế kỷ 20, những trường phái nghiên cứu, phê bình văn học mới nở rộ, với sự xuất hiện của [[trường phái hình thức Nga]], [[phân tâm học]], [[chủ nghĩa cấu trúc]] (structuralism) và [[hậu cấu trúc]]; [[phê bình mới]] (new criticism); [[xã hội học văn học]] (sociology of literature); [[ký hiệu học]] (semiotics); [[chủ nghĩa duy ý chí]] (voluntarism); [[trường phái văn hóa - lịch sử]] (cultural-historical schooll) với chủ nghĩa thực chứng A. Comte, lý luận nghệ thuật H. Tainer v.v.; [[thuyết chuyển cảm]] (empathetics); [[chủ nghĩa biểu hiện]] (expressionism); [[chủ nghĩa trực giác]] (intuitivism); [[thuyết hoàn hình]] (gestalt); [[chủ nghĩa hiện sinh]] (existentialism); [[hiện tượng luận]] (phenomenology);[[phân tâm học]] (psychoanalysis); [[tâm phân học]] (analytical psychology); [[mỹ học phân tích]] (analytic esthetics); [[chủ nghĩa thực dụng]] (pragmaticm); [[giải thích học]] (hermeneutics); [[mỹ học tiếp nhận]] (receptive esthetics); [[chủ nghĩa hình thức]] (formalism); [[ngữ nghĩa học]] (semantics), [[chủ nghĩa hậu hiện đại]] (postmodernism)<ref>Liệt kê theo ''Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ 20, Phương Lựu biên soạn, NXB Văn học, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, H. 2001''</ref> v.v.
 
==Bộ môn nghiên cứu==
Hàng 26 ⟶ 30:
Phong cách học phần nhiều có vị trí và chức năng tương tự thi học trong văn học sử, lý luận văn học và phê bình văn học, tuy nhấn mạnh khảo cứu đặc trưng thế giới quan, nhân sinh quan, cá tính sáng tạo của nhà văn, và sự biểu hiện của thế giới quan, nhân sinh quan, cá tính sáng tạo trong tác phẩm văn học.
 
==Quan hệ giữa nghiên cứu văn học vàvới các bộ môn khác==
Nghiên cứu văn học là chuyên ngành khoa học có độ mở rất lớn, bao gồm trong nó sự liên hệ đa dạng với các khoa học nhân văn khác. Một số ngành khoa học xã hội, khoa học nhân văn là cơ sở phương pháp luận của nghiên cứu văn học (như [[triết học]], [[mỹ học]], [[giải thích học]]); một số ngành khác gần nghiên cứu văn học về đối tượng hoặc nhiệm vụ nghiên cứu (như nghiên cứu văn hóa dân gian, nghệ thuật học đại cương). Bên cạnh 2 nhóm bộ môn hỗ trợ nói trên, còn cần kể đến nhóm các ngành cùng chung xu hướng nhân văn như [[sử học]], [[tâm lý học]], [[xã hội học]].
 
Riêng đối với ngữ học, nghiên cứu văn học có sự liên hệ về nhiều mặt: cùng chung tài liệu nghiên cứu (ngôn ngữ, vừa với tư cách phương tiện giao tiếp vừa với tư cách "yếu tố thứ nhất", ngôn từ, của văn học), gần gũi về chức năng nhận thức của ngôn ngữ và hình tượng, có sự tương đồng nhất định về cấu trúc. Trước đây nghiên cứu văn học và các ngành nhân văn học khác được gộp vào khái niệm [[ngữ văn học]] như một khoa học tổng hợp, nghiên cứu văn hóa tinh thần trong các dạng biểu hiện ngôn ngữ, văn tự, văn bản, văn học. Ở thế kỷ 20 khái niệm ngữ văn học thường trỏ chung hai ngành nghiên cứu văn học và ngữ học, và theo nghĩa hẹp là trỏ các bộ môn văn bản học và phê bình văn bản.
 
==Chú thích==
<references />
 
==Tham khảo==
* ''150 thuật ngữ văn học'', Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2003, trang 224-228.
* ''Lý luận văn học'', Phương Lựu chủ biên, ''phần 4: Phương pháp nghiên cứu'' văn học, trang 646-713.
*''Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX'', Phương Lựu chủ biên, NXB Văn học, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, 2001.
 
[[Thể loại:Thuật ngữ văn học]]
[[Thể loại:Lý luận văn học]]