Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Xuân Thục”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
XA (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
XA (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 9:
Sau khi vua Gia Long qua đời, ngay khi vừa mới lên ngôi, vua Minh Mệnh trong chiếu đề ngày 16/2 Minh Mệnh nguyên niên (1820) đã cho triệu ông về kinh "chuẩn cho lưu lại tại kinh cùng với Hữu Tham tri bộ Binh Quang Huy hầu Nguyễn Tăng Địch làm các công vụ trong Bộ...". Việc đưa Nguyễn Xuân Thục về kinh chứng tỏ sự tin tưởng của vua Minh Mệnh vào tài năng cũng như đức độ của Nguyễn Xuân Thục, nhất là khi vua Minh Mệnh vừa mới lên ngôi, rất cần những người tâm phúc để giao phó những công việc quan trọng. Điều này càng thể hiện rõ hơn qua việc vua Minh Mệnh đã giao cho ông làm Phó sứ Sơn lăng lo việc xây cất lăng Thiên Thọ-Nơi chôn cất vua Gia Long. Và Nguyễn Xuân Thục đã không phụ lại sự ủy thác của vua Minh Mệnh. Trong bản chiếu đề ngày 22/2 Minh Mệnh nguyên niên (1820), vua đã nhận xét rằng: “công việc lăng hoàn thành mỹ mãn vô cùng, kính cẩn, chính xác xứng với lòng hiếu thảo tột cùng của trẫm”.
Sự tin yêu của vua Minh Mệnh dành cho ông ngày càng tăng. Trong chiếu đề ngày 30/4 Minh Mệnh nguyên niên (1820), nhà vua đã giao cho Nguyễn Xuân Thục đến Thành Gia Định “đặc chuẩn thuyên chuyển làm Hữu Tham Tri bộ Hộ quản lý sự vụ tại cơ quan bộ Hộ (Hộ tào), kiêm lý cơ quan bộ Công (Công tào) làm tất cả sự vụ quan trọng các cơ quan đó”. Như vậy là công việc của Nguyễn Xuân Thục trong bộ Hộ là coi việc đinh điền, thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ… Còn công việc của ông trong bộ Công là: coi việc làm cung điện, dinh thực, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu…Đồng thời vua Minh Mệnh còn dặn dò ông “tham gia cùng quan Khâm sai Tổng Trấn giải quyết mọi việc cung kính cần mẫn cho xứng với sự ủy nhiệm hết lòng”. Lúc này, Tổng Trấn Thành Gia Định là Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt là người cương trực và trung thành, nhiều lần đã can vua, làm trái ý vua…Nhưng vì ông là khai quốc công thần và đã dược vua Gia Long troa cho “Thượng phương kiếm”, được coi là “cố mạng lương thần”, là bề tôi lương thiện được vua tin cậy giao phó trách nhiệm phò tân quân (Minh Mạng); ngoài ra Lê Văn Duyệt còn có công lao dẹp giặc, an dân, mở mang đất đai, cường thịnh nhất là vùng Đồng Nai-Cửu Long (tức Gia Định, Nam Kỳ lục tỉnh)…nên dù không vừa lòng, vua Minh Mạng cũng phải đối xử với ông cho đúng với công lao khi ông còn sống. Việc đưa Nguyễn Xuân Thục vào Thành Gia Định ở một khía cạnh nào đó có thể xem như là việc giám sát các hoạt động của Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mệnh trong một tờ chiếu sau đó (ngày 19/2 Minh Mệnh năm thứ 2), đã một lần nữa căn dặn Nguyễn Xuân Thục "Do công việc thuế khóa đất nước to lớn. Nay đặc chuẩn Thục Thiện Hầu chuyên trách các công việc quan trọng tại Hộ tào thành Gia Định và tham gia biện lý cùng quan Khâm sai Tổng Trấn. Phải nên thận trọng chừng mực trong những việc mẫn cảm tế nhị để xứng đáng việc hết lòng ủy nhiệm"
Ngày 7/8 Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), Nguyễn Xuân Thục được giao "đặc phái làm đề điệu trường thi thành Gia Định, lãnh ấn trường, phàm công việc rường thi phải tuân theo như trong sắc chỉ, hiệp cùng giám thí viên thừa hành lễ lớn tuyển chọn nhân tài này. Nên theo công tuyển chon lấy bỏ cho thích đáng, xứng với sự ủy thác". Những người đỗ thi Hương đạt học vị Cử nhân và Tú tài (xưa gọi là Hương cống, Sinh đồ). Số thí sinh kể có hàng nghìn, nhưng số lấy đỗ chỉ có 72 tú tài và 32 cử nhân. Những người đỗ cử nhân sẽ được bổ dụng ra làm quan, đầu tiên có thể được làm việc ở các cơ quan cấp Tỉnh, cấp trung ương, hoặc được đi làm quan các Huyện, sau dần dần mới lên các chức vụ cao hươn.
Trong 2 bản chiếu vào cùng ngày 21/7 Minh Mệnh năm thứ 3 (1822), vua Minh Mệnh đã truy tặng cho cả cha và mẹ của Nguyễn Xuân Thục (lúc này đều đã mất). Mẹ ông là bà Trần Thị Đường được vua Minh Mệnh dùng những mỹ từ sau: "Đến nay việc hiếu đã để lại ấn tượng sâu sắc và tràn trề ơn đức...nay tặng ngươi là Thục Nhân...danh không mất mà còn lưu dẫn ánh sáng chói lọi làm tiêu tan u buồn". "Thục Nhân" là danh hiệu phong cho mệnh phụ hàm tam phẩm (Nhất phẩm: Phu Nhân; Nhị phẩm: Đoan Nhân; Tam phẩm: Thục Nhân; Tứ phẩm: Cung Nhân; Ngũ phẩm: Nhụ Nhân, v.v). Còn cha ông là Nguyễn Xuân Tịnh thì được vua Minh Mệnh dùng các mỹ từ sau: "Tính ông ngay thẳng, đoan trang, hào hoa đôn hậu, đáng phong là nhà thiện đạo, nhà không giàu mà rộng rãi theo nghiệp kiếm cung, dạy con theo việc nghĩa, chinh phạt lớn theo xe tứ mã...Nay đặc biệt tặng ngươi là Trung nghị đại phu Tư trị thiếu khanh Hương Nguyên hầu...".
Tài năng và đức độ của Nguyễn Xuân Thục đã được vua Minh Mệnh ghi nhận thông qua Chiếu đề ngày 28/4 Minh Mệnh năm thứ 6 (1825): "Lệnh cho Hữu tham tri bộ Hộ chuyên lĩnh chức Hộ tào Công tào sự vụ thành Gia Định Nguyễn Xuân Thục: Trước nay thông thạo chính thể tại sở đều biết, trước triều đình nhận chức Thượng Thư bộ Binh. Thục Thiện hầu nhận lãnh ấn cơ quan Bộ quản lý các công vụ trong bộ, phải phát huy tài năng hết mực, trung thành cẩn thận đến cùng để xứng với trách nhiệm ủy thác". Thượng thư bộ Binh (tương đương với Bộ Trưởng ngày nay) là một chức vụ rất quan trọng bởi vì đây là chức vụ nắm toàn bộ quân đội (gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo thủ binh) nên nếu không phải là người tin cẩn thì không bao giờ được vua giao. Bởi vì không riêng gì vua Minh Mệnh mà tất cả các triều vua phong kiến Việt Nam đều rất e ngại nếu không kiểm soát được quân đội. Điều này càng chứng tỏ ngoài tài năng và đức độ, Nguyễn Xuân Thục còn là người rất tin cẩn của vua Minh Mệnh.