Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Loạn Tam phiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
Dòng 6:
Tam phiên có địa bàn cai quản rộng lớn, thế lực ngày càng mạnh, lại là tướng cũ của [[nhà Minh]], trở thành mối lo với nhà Thanh, do đó Khang Hi quyết tâm trừ bỏ. Tháng 3 năm [[1673]], Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ tuổi cao sức yếu dâng thư lên triều đình xin được về hưu dưỡng lão và xin cho con là Thượng Chi Tín kế chức. Khang Hi nắm được cơ hội bắt đầu trừ bỏ tam phiên, bèn đồng ý với thỉnh cầu từ chức của Khả Hỷ, nhưng không cho Chi Tín kế vị.
 
Lúc đó con trai [[Ngô Tam Quế]] là [[Ngô Ứng Hùng]] đang ở [[Bắc Kinh]] đã nhanh chóng đưa tin về Vân Nam. Tháng 7 năm đó, tin tức đưa tới miền nam. Ngô Tam Quế và Cảnh Tinh Trung thấy [[Khang Hi]] đồng ý với đề nghị rút lui của Thượng Khả Hỷ, lấy làm lo lắng, bèn đồng loạt viết thư xin cáo lão. Các đại thần cho rằng hai Ngô Tam Quế và Cảnh Tinh Trung không thực lòng rút lui, khuyên ông không nên phê chuẩn vì sẽ gây biến loạn<ref>Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 537</ref>.
 
Trong khi đó, chỉ có số ít đại thần đồng tình với ý định triệt phiên của Khang Hi như Thượng thư Bộ Hộ là Mễ Tư Hàn, Thượng thư Bộ Hình là Mạc Lạc, Thượng thư Bộ Binh là Minh Châu. Khang Hi muốn nhân cơ hội này trừ bỏ tam phiên nên chấp thuận luôn, và sai Bác Nhĩ Khẳng, Chiết Mại Lễ tới Vân Nam, sai Lương Thanh Tiêu tới Quảng Đông, Trần Nhất Bỉnh tới Phúc Kiến để thi hành mệnh lệnh, thúc giục tam vương rời bỏ ngôi vị.
Dòng 15:
Tam Quế viết thư cho Phúc Kiến và Quảng Đông đề nghị cùng khởi binh với danh nghĩa “phục Minh diệt giặc”, tự xưng là “thiên hạ đô chiêu thảo binh mã đại nguyên soái”. Thượng Chi Tín và Cảnh Tinh Trung đều hưởng ứng. Con [[Trịnh Thành Công]] là [[Trịnh Kinh]] cũng nhân dịp đó mang quân từ đảo Đài Loan vào đất liền đánh chiếm Ôn châu, Tuyền châu, Chương châu…<ref>Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 389</ref>.
 
Quân nổi dậy của Ngô Tam Quế nhanh chóng chiếm giữ Nguyên châu, Thường Đức rồi tiến vào Tứ Xuyên. Tam Quế đích thân tới Thường Đức, Lễ châu chỉ huy chiến trận.
 
Trước thế mạnh của Tam vương, một số đại thần nhà Thanh khuyên Khang Hi theo nếp cũ của [[Hán Cảnh Đế]] từng chém Triều Thố để yên lòng Ngô vương [[Lưu Tỵ]] khi mới xảy ra [[loạn bảy nước]], vì vậy nên chém những người đồng tình triệt phiên như Mễ Tư Hàn, Mạc Lạc và Minh Châu để làm vừa lòng Tam phiên. Nhưng Khang Hi kiên quyết phản đối chủ trương đó, vì ông đã thấy trong quá khứ sau khi Hán Cảnh Đế chém Triều Thố, Lưu Tỵ vẫn không giải binh. Vì vậy ông tuyên bố một mình chịu trách nhiệm việc triệt phiên, và lệnh bắt giam con cháu Ngô Tam Quế ở Bắc Kinh là Ngô Ưng Hùng, Ngô Thế Lâm.
Dòng 33:
Quân Thanh chiếm lại trọng điểm Bình Lương khiến Ngô Tam Quế ở [[Thiểm Tây]] bị thất thế. Sang năm [[1678]], quân Thanh giành thắng lợi, đánh chiếm lại [[Thiểm Tây]]. Một số tướng lĩnh của Tam Quế là Lâm Hưng Chu, Hàn Đại Nhiệm xin hàng nhà Thanh. Cùng lúc Vương Kiệt Thư đánh bại quân Ngô ở [[Giang Tây]] và [[Chiết Giang]] khiến Cảnh Tinh Trung không còn ngoại viện, thế cùng phải xin hàng.
 
Thế cục đã thay đổi, Ngô Tam Quế phải rút về chỉ còn giữ được Vân Nam. Nhưng đầu năm [[1678]] Ngô Tam Quế vẫn cố xưng đế hiệu ở Hành Dương, đặt quốc hiệu là Chu. Chỉ 5 tháng sau Tam Quế già yếu mắc bệnh qua đời. Cháu Tam Quế là [[Ngô Thế Phan]] kế vị.
 
Năm [[1680]], Khang Hi điều 3 cánh quân tấn công Vân Nam. Ngô Thế Phan thất bại liên tiếp, quân Thanh chiếm được [[Côn Minh]]. Thế Phan bị dồn vào đường cùng, phải uống thuốc độc [[tự sát]]. Sang năm [[1681]], Khang Hi hoàn toàn dẹp được Vân Nam, chấm dứt loạn Tam phiên.
Dòng 41:
 
== Chú thích ==
{{reflistTham khảo}}
== Tham khảo ==
* Thương Thánh ([[2011]]), ''Chính sử Trung Quốc qua các triều đại'', NXB Văn hóa thông tin