Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Thế Môn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Wikify, bổ sung tài liệu tham khảo
Dòng 1:
'''Trần Thế Môn''', tên khai sinh là '''Trần Đình Thìn''', (1915 - 2009), quê một [[NhânThiếu Đạo]]tướng huyệnQuân [[Lýđội Nhân]] tỉnhdân [[HàViệt Nam]],. [[ThiếuChức tướngvụ Quâncao độinhất Nhâncủa dânông Việt Nam]], Chánh án tòaTòa án Quân sự Trung ương, kiêm Phó Chánh án [[Tòa án Nhân dân Tối cao (Việt Nam)]].
 
== TiểuThân sửthế sự nghiệp ==
Ông có tên khai sinh là '''Trần Đình Thìn''', sinh ngày [[4 tháng 1]] năm 1915, quê tại xã Trần Thương, huyện Nam Xang (nay thuộc xã [[Nhân Đạo]], huyện [[Lý Nhân]]) tỉnh [[Hà Nam]].
Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1915
Quê quán: Xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam.
Năm 1936 ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng tại Hải Phòng.
Năm 1939 ông bị Thực dân Pháp bắt giam lần 1.
Tháng 11/1940 ông được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 1/1941 ông bị Thực dân Pháp bắt giam lần 2, bị tòa Đại hình của Pháp tại Hà Nội kết án 10 năm khổ sai.
Tháng 7/1941 ông bị Thực dân Pháp giam giữ tại nhà tù Sơn La. Đầu năm 1943 thì ông bị chuyển về giam giữ tại nhà tù chợ Chu, Thái Nguyên.
Đầu năm 1944, ông cùng 11 đồng chí đảng viên khác gồm [[Song Hào]], Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đỉnh, Trần Công Bình, Chu Nhữ, [[Lê Hiến Mai]], Vũ Phong, Nhị Quý, Trần Tùng, Hoàng Bá Sơn, Nguyễn Kháng vượt ngục về hoạt động cách mạng, tham gia hoạt động tại Phân khu Nguyễn Huệ. Lúc này ông lấy tên hoạt động là Trần Thế Môn.
Tháng 10/1044, ông được Đảng phân công về hoạt động Cứu quốc quân III, hoạt động tại Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Từ tháng 3 đến tháng 5/1945, ông tham gia giải phóng các khu vực thuộc Tuyên Quang và Thái Nguyên và chống quân Nhật càn phá, góp phần vào việc tạo ra khu Giải phóng Việt Minh với Tân Trào là Thủ đô kháng chiến.
Tháng 8 năm 1945, ông phụ trách một đội quân tham gia giành chính quyền ở thị xã Tuyên Quang.
Ngày 30/8/1945, ông tham gia thành lập Chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản (Phú Thọ) và trực tiếp làm Chi đội trưởng. Tháng 9/1945, ông được giao nhiệm vụ làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn Phú Yên (Phú Thọ - Yên Bái).
Tháng 4/1946, ông làm Trung đoàn trưởng Trung Đoàn Bắc-Bắc (Bắc Ninh-Bắc Giang).
Tháng 10/1946, ông được điều về làm Chính ủy trung đoàn 115 Phú Yên.
Tháng 1/1948 ông về công tác tại Tổng Thanh Tra quân đội.
Năm 1956 ông được điều sang nhận nhiệm vụ làm Chính Ủy Cục Công Binh.
Cùng năm 1956, ông được điều về làm Chính Ủy Quân Khu Tây Bắc, rồi làm Phó Chính Ủy Quân Khu 4.
 
Năm 18 tuổi, ông một mình lên [[Hải Phòng]] làm thợ. Do bản tính ham học hỏi, ông nhanh chóng có một tay nghề giỏi, được các bạn quý mến. Từ năm 1936, ông bắt đầu tham gia hoạt động trong phong trào đấu tranh của công nhân tại Hải Phòng.
Năm 1958, ông được phong quân hàm Đại Tá.
 
Năm 1939, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam một thời gian ngắn do tham gia phong trào đấu tranh của công nhân đòi tăng lương giảm thuế. Do những hoạt động tích cực của mình, tháng 11 năm 1940, ông được ông [[Lương Khánh Thiện]] – Xứ ủy viên Bắc Kỳ phụ trách miền duyên hải (bao gồm Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai), chính thức tuyên bố kết nạp vào [[Đảng Cộng sản Đông Dương]].
Tháng 8 năm 1966, ông vào chiến trường và công tác tại Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị.
 
ĐầuTháng 1 năm 1941, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam lần thứ 2, bị Tòa Đại hình của Pháp tại Hà Nội kết án 10 năm khổ sai. Tháng 7 năm 1941, ông chuyển lên giam giữ tại [[nhà tù Sơn La]]. Đến đầu năm 1943, thì ông bị chuyển về giam giữ tại [[nhà tù chợ Chu]] ([[Thái Nguyên]]). Tại đây, đầu năm 1944, ông cùng 11 đồng chí đảng viên khác gồm [[Song Hào]], Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đỉnh, Trần Công Bình, Chu Nhữ, [[Lê Hiến Mai]], Vũ Phong, Nhị Quý, Trần Tùng, Hoàng Bá Sơn, Nguyễn Kháng vượt ngục về hoạt động cách mạng, tham gia hoạt động tại Phân khu Nguyễn Huệ. Lúc này ông lấy tên hoạt động là '''Trần Thế Môn'''.
Tháng 10/1967 đến tháng 12/1973, ông làm Chính Ủy Mặt Trận B3 (Tây Nguyên) thay Đồng Chí [[Chu Huy Mân]].
 
Tháng 10 năm 1944, ông được phân công về hoạt động trong lực lượng Cứu quốc quân III, hoạt động tại Thái Nguyên và [[Tuyên Quang]]. Từ tháng 3 đến tháng 5/ năm 1945, ông tham gia giải phóng các khu vực thuộc Tuyên Quang và Thái Nguyên và chống quân Nhật càn phá, góp phần vào việc tạo ra khu Giải phóng Việt Minh với Tân Trào là Thủ đô kháng chiến.<ref>[http://dulichtantrao.com.vn/v/69081-%C4%90%C3%88O-CH%E1%BA%AEN.html Đèo Chắn]</ref> Tháng 8 năm 1945, ông phụ trách một đội quân tham gia giành chính quyền ở thị xã Tuyên Quang.
Đầu năm 1974 ông trở lại làm Chính ủy [[Binh chủng Công binh, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Binh chủng Công binh]]. Cùng năm 1974, ông được phong quân hàm [[Thiếu tướng]].
 
Ngày [[30/ tháng 8/]] năm 1945, ông tham gia thành lập Chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản (Phú Thọ) và trực tiếp làm Chi đội trưởng. Tháng 9/ năm 1945, ông được giao nhiệm vụ làm Trung Đoànđoàn Trưởngtrưởng Trung Đoànđoàn Phú Yên (Phú Thọ - Yên Bái). Tháng 4 năm 1946, ông làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bắc-Bắc (Bắc Ninh-Bắc Giang). Đến tháng 10 năm 1946, ông được điều về làm Chính ủy Trung đoàn 115 Phú Yên.
Năm 1977, ông về làm Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, kiêm Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối tao.
 
Tháng 1 năm 1948, ông về công tác tại Tổng Thanh tra Quân đội. Năm, 1956 ông được điều sang nhận nhiệm vụ làm Chính ủy Cục Công binh. Cùng năm đó, ông lại được điều về làm Chính ủy Quân khu Tây Bắc, rồi làm Phó chính ủy Quân khu 4. Năm 1958, ông được phong quân hàm [[Đại tá]].
Năm 1979, ông nghỉ hưu.
 
Tháng 8 năm 1966, ông vào chiến trường miền Nam và công tác tại Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Từ tháng 10 năm 1967 đến tháng 12 năm 1973, ông làm Chính ủy Mặt trận B3 (Tây Nguyên) thay ông [[Chu Huy Mân]].
Ông được Nhà nước trao Huân Chương Độc lập hạng nhất.
 
Đầu năm 1974, ông trở lại làm Chính ủy [[Binh chủng Công binh, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Binh chủng Công binh]]. Cùng năm 1974, ông được phong quân hàm [[Thiếu tướng]].
Ông mất tháng 12/2009, hưởng thọ 94 tuổi.
 
Năm 1977, ông về làm Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, kiêm Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao.<ref>[http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHTTtapV/1977/UBTVQH1977_11.htm Nghị quyết 85 NQ/TVQH năm 1977]</ref>. Ông giữ chức vụ này cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1979.
 
Mặc dù vậy, ông vẫn tiếp tục tham gia công tác tư pháp với tư cách là Luật sư, được bầu làm Phó Chủ nhiệm khóa I (1984-1988), rồi Chủ nhiệm khóa II (1988-1991) Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội.
 
Ông qua đời lúc 19 giờ ngày [[12 tháng 12]] năm 2009 tại Viện Quân y 108, thọ 94 tuổi.
 
==Khen thưởng==
Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng:
 
* [[Huân chương Hồ Chí Minh]]
* [[Huân chương Độc lập hạng Nhất]]
* [[Huân chương Quân công hạng Nhất]]
* [[Huân chương Chiến thắng hạng Nhất]]
* [[Huân chương Kháng chiến|Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất]]
* [[Huân chương Chiến sĩ vẻ vang]] (Nhất, Nhì, Ba)
==Đời tư==
Ông lập gia đình với bà Phạm Thị Mậu, nhỏ hơn ông 12 tuổi. Ông bà có với nhau 5 người con, gồm 4 trai và 1 gái.
==Chú thích==
{{reflist}}
 
== Tham khảo ==
* [http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/56/58/58/129453/Default.aspx bài ''Nhớ Thiếu tướng Trần Thế Môn'' của thiếu tướng Nguyễn Hữu Yên ngày 13/11/2010]
* [http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=30254&cn_id=195524 Trước ngày vào Nam]
*Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004. tr. 1007.
* [http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng/nguoi-noi-tieng/201207/doi-voi-toi-anh-ay-mai-la-anh-bo-doi-2173617/ ’Đối với tôi, anh ấy mãi là anh bộ đội’]
* Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004. tr. 1007.
* Trần Thế Môn, Hồi ký ''Một chặng đường cách mạng'', Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2002.
 
{{thời gian sống|Sinh=1915|Mất=2009}}
[[Thể loại:Người Hà Nam]]
[[Thể loại:Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam]]
[[Thể loại:Huân chương Hồ Chí Minh]]
[[Thể loại:Huân chương Độc lập]]
[[Thể loại:Huân chương Quân công]]
[[Thể loại:Huân chương Chiến thắng]]
[[Thể loại:Huân chương Kháng chiến]]
[[Thể loại:Huân chương Chiến sĩ vẻ vang]]
[[Thể loại:Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam]]