Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Làn sóng Hàn Quốc”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Chèn liên kết, lỗi nhỏ. |
|||
Dòng 1:
[[Tập tin:T-ara's Soyeon at the Cyworld Dream Music Festival.jpg|nhỏ|phải|230px|K-
'''Hàn lưu''' hay '''Hallyu''' ({{kor|k=한류|hanja=韓流}}; có nghĩa là ''Làn sóng Hàn Quốc'') là tên gọi được bắt nguồn từ cách gọi của một số nhà báo ở Bắc Kinh về sự nổi tiếng nhanh chóng của Hàn Quốc và các sản phẩm của Hàn Quốc tại Trung Quốc<ref name="washingtonpost.com">[http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2006/08/30/AR2006083002985.html Japanese Women Catch the 'Korean Wave'<!-- Bot generated title -->]</ref>, hiện được dùng để ám chỉ sự nổi tiếng của [[văn hóa Hàn Quốc]] trên thế giới trong thế kỷ 21. ''Làn sóng Hàn Quốc'' nổi tiếng khắp [[châu Á]], đặc biệt là tại [[Đông Á]] bao gồm [[Nhật Bản]], [[Trung Quốc]], [[Trung Hoa Dân Quốc|Đài Loan]], các nước [[Đông Nam Á]] và đang bắt đầu lan rộng tới [[Ấn Độ]]<ref>[http://www.e-pao.net/epPageExtractor.asp?src=features.Korean_Cultural_Diffusion_in_Manipur.html. Korean Cultural Diffusion in Manipur<!-- Bot generated title -->]</ref>, [[Trung Đông]]<ref>[http://www.korea.net/korea/G08_board_view.asp?board_no=162&page= Korea.net : The official website of the Republic of Korea<!-- Bot generated title -->]</ref>, [[Trung Á]]<ref>[http://www.registan.net/index.php/2006/09/25/korean-wave-sweeps-uzbekistan/ “Korean Wave” Sweeps Uzbekistan — Registan.net<!-- Bot generated title -->]</ref>, [[Thổ Nhĩ Kỳ]]<ref name=autogenerated1>[http://newsletter.kf.or.kr/english/contents.asp?lang=English&no=634&vol=58 KF Newsletter -The Korea Foundation<!-- Bot generated title -->]</ref>.
Hiện nay làn sóng Hàn Quốc thông qua [[K-pop]] và [[phim truyền hình]] đang lan truyền khắp thế giới. Sự lan rộng và yêu thích của Hàn lưu trên khắp toàn cầu là niềm tự hào của người Hàn Quốc. Tuy nhiên
{{chú thích báo
|tác giả= Cát Khuê
Dòng 13:
==Tổng quan==
Hàn Quốc là một trong top 10 nước xuất khẩu văn hóa hàng đầu thế giới<ref>[http://www.koreatimes.co.kr/www/news/special/2008/05/180_23641.html Korean Wave Hallyu Abroad Waning<!-- Bot generated title -->]</ref>, làn sóng Hàn bắt đầu với việc xuất khẩu các sản phẩm phim truyền hình như [[Trái tim mùa thu]], [[Bản tình ca mùa đông]] và [[Jang Geum|Nàng Dae Jang Geum]] khắp Đông và Đông Nam Á. Sự thành công nhanh chóng của phim truyền hình Hàn Quốc kéo theo sự nổi tiếng của phim nhựa, âm nhạc đại chúng Hàn Quốc (gọi tắt [[K-pop]]), [[Ẩm thực Triều Tiên]] và [[ngôn ngữ|Tiếng Triều Tiên]]<ref>[http://www.mysinchew.com/node/14541 The Korean Food Wave | My Sinchew<!-- Bot generated title -->]</ref>.
Bộ Văn hóa Hàn Quốc đã có kế hoạch đẩy mạnh làn sóng Hàn Quốc thứ nhất theo đó Hàn Quốc tập trung nhấn mạnh việc phát triển văn hóa truyền thống, theo kế hoạch thứ hai thì nhắm đến 3 mục tiêu K-Arts (nghệ thuật Hàn Quốc), ba lê và học viện âm nhạc. Để thực hiện họ đã tài trợ một quỹ trị giá khoảng 12 tỷ [[won]]<ref>tương đương hơn 223 tỷ đồng Việt Nam</ref> được lập ra để hỗ trợ phát triển âm nhạc dân tộc truyền thống. Chính phủ Hàn Quốc từng dự kiến sẽ chi 54,4 tỷ won cho các dự án và Bộ Văn hóa sẽ hỗ trợ những sản phẩm của chương trình văn hóa mới, đào tạo các chuyên gia có thể dẫn dắt các ngành công nghiệp văn hóa và nghệ thuật, tức kết nối nghệ thuật và văn hóa với ngành công nghiệp và kỹ thuật, đẩy mạnh trao đổi văn hóa ra nước ngoài để củng cố vững chắc làn sóng Hàn Quốc <ref>
Dòng 27:
==Lịch sử==
===2000 - 2009: Làn sóng Hallyu ở châu Á===
Bước sang thế kỉ 21, nhiều quốc gia ở Đông Á đã nhận thấy được sự phát triển của phim truyền hình và nhạc Pop Hàn Quốc. Năm 2000, cô ca sĩ K-
Bên cạnh thành công ban đầu của làn sóng Hallyu, còn có một sự phát triển đáng chú ý không kém trong những sản phẩm văn hoá nhập khẩu đến từ Đài Loan, quốc gia mà cũng giống như Hàn Quốc khi là một trong "Bốn con hổ châu Á". Sự lan toả làn sóng văn hoá đại chúng Đài Loan xảy ra sớm hơn một chút, trước khi làn sóng Hallyu được biết đến ở châu Á. Năm 2001, bộ phim truyền hình Đài Loan
- Sự đồng cảm của khán giả với điểm nhấn riêng trong việc thăng tiến cảm xúc cùng nhân vật chính.
- Sự chú trọng rõ rệt tới ham muốn tình cảm của phụ nữ - Khởi nguồn từ những tình tiết kịch theo khuôn mẫu đánh trúng tâm lí phụ nữ,
Như một hệ quả tất yếu sau thành công của
Năm 2002, bộ phim truyền hình Hàn Quốc
Những bộ phim truyền hình Hàn Quốc khác được phát sóng trong những năm tiếp theo, như
Kể từ năm 2002, xu hướng chương trình truyền hình tại Đông Nam Á bắt đầu trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ khi phim truyền hình Hàn Quốc và Đài Loan lấp đầy khoảng trống vốn dành cho các bộ phim Hollywood trong suốt thời gian đầu.<ref name="hollywoodasia"/> Mặc dù phim truyền hình Hàn dần dần lấn át những sản phẩm cùng thể loại đến từ Đài Loan nhưng phần lớn fan châu Á vẫn quan tâm chủ yếu đến các nhóm nhạc Đài Loan như [[F4]], [[S.H.E]] và [[Phi Luân Hải]]. Sự đột phá của K-
Trong khi đó, sự phổ biến của phim truyền hình Hàn Quốc tiếp tục lan rộng khắp lục địa châu Á, với nhiều nam diễn viên Hàn được miêu tả không những ngọt ngào, lãng mạn, nhạy cảm mà còn rất đẹp trai. Những phóng sự về phụ nữ châu Á di chuyển đến Hàn Quốc để “tìm một người chồng Hàn” bắt đầu xuất hiện trên các phương tiện truyền thông, bao gồm một bài báo trên [[Washington Post]] về hàng nghìn phụ nữ Nhật Bản cuồng nhiệt định cư vì “không gì hơn một người bạn đời Hàn Quốc”<ref>{{cite web|title=Japanese Women Catch the 'Korean Wave'|url=http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2006/08/30/AR2006083002985.html|publisher=''[[The Washington Post]]''|accessdate=18 March 2013|quote=There's only one more thing this single Japanese woman says she needs to find eternal bliss -- a Korean man. She may just have to take a number and get in line. In recent years, the wild success of male celebrities from South Korea -- sensitive men but totally ripped -- has redefined what Asian women want, from Bangkok to Beijing, from Taipei to Tokyo. Gone are the martial arts movie heroes and the stereotypical macho men of mainstream Asian television. Today, South Korea's trend-setting screen stars and singers dictate everything from what hair gels people use in Vietnam to what jeans are bought in China. Yet for thousands of smitten Japanese women like Yoshimura, collecting the odd poster or DVD is no longer enough. They've set their sights far higher -- settling for nothing less than a real Seoulmate.}}</ref>, một bài viết trên tạp chí
Cho đến cuối những năm 2000, nhiều nhóm nhạc Đài Loan không còn bắt kịp được với các đồng nghiệp K-
==Sự thăng trầm==
Dòng 58:
Tuy nhiên cũng có nhiều dấu hiệu cho thấy, làn sóng Hàn Quốc có suy thoái, những [[siêu sao]] Hàn Quốc không còn sức hấp dẫn tuyệt đối với [[người hâm mộ]]. Tại Trung Quốc, tỷ lệ phần trăm những người hài lòng với những bộ phim truyền hình Hàn Quốc đã giảm từ 72% năm 2004 xuống 63.3% năm 2006. Tại Đài Loan, mức độ giảm sút là từ 62% xuống 57.9%. Sự không thỏa mãn tăng từ 5% đến 5.4% tại Trung Quốc và từ 1% đến 3% tại Đài Loan. Tại Nhật Bản, tỷ lệ những người hài lòng với phim nhựa Hàn giảm từ 60 xuống 54.6%, tại Trung Quốc giảm từ 75% xuống 59.7%, tại Đài Loan giảm từ 49% xuống 42.1%<ref>[http://vietbao.vn/Giai-tri/Lan-song-Han-Quoc-suy-thoai-tram-trong/55135221/50/ Làn sóng Hàn Quốc suy thoái trầm trọng<!-- Bot generated title -->]</ref>.
Một khảo sát cho thấy cứ 6 trong 10 người nước ngoài tin rằng xu hướng yêu thích văn hóa Hàn như
==Tại Việt Nam==
Dòng 65:
Tuy nhiên khi tiếp nhận trào lưu Hàn Quốc trong lĩnh vực giải trí (ca nhạc, phim ảnh...) có nhiều ý kiến khác nhau về đồng tình, ủng hộ cũng như không đồng tình, ủng hộ trào lưu này.
===Ủng hộ===
Một số ý kiến đồng tình thường từ giới trẻ cho rằng trào lưu Hàn Quốc mà biểu hiện là
Cũng theo những đối tượng này thì vì họ còn trẻ nên dĩ nhiên thích những gì sôi động và bắt mắt, và đến khi thực sự trưởng thành, họ sẽ tự biết cư xử như thế nào cho phù hợp mà không cần phải có sự áp đặt của các bậc bố mẹ vì họ quá khác về cách suy nghĩ, lối sống<ref>[http://vnexpress.net/gl/ban-doc-viet/2012/03/tieng-noi-cua-mot-nguoi-tre-me-nhac-han/ Tiếng nói của một người trẻ mê nhạc Hàn - VnExpress<!-- Bot generated title -->]</ref>.
Dòng 75:
Một số phụ huynh khác kêu gọi cần ngăn chặn vì những tác động của làn sóng Hàn Quốc đối với giới trẻ Việt thì tiêu cực nhiều hơn tích cực như một bộ phận lớn học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 chăm chỉ online cập nhật tin tức ban nhạc Hàn, lập hội anti fan... học thuộc tiểu sử ca sĩ, diễn viên Hàn còn hơn nhớ bài học ở trường, tiêu tốn hàng mấy trăm ngàn hoặc hơn cho những đĩa nhạc, ly tách, poster có hình thần tượng, hay thậm chí hàng triệu đồng để đi xem show ca nhạc. Thời gian, tâm sức họ dành trọn cho video clip, phim ảnh, họp fan club, bàn luận, tranh cãi thần tượng, làm biến một thứ giải trí bình thường thành mối bận tâm, si mê, cuồng tín. Thời gian, hiệu quả học tập giảm sút do không đầu tư, kết quả học tập kém, nguy cơ bỏ học...
Và có ý kiến đề xuất rằng mỗi người hãy tự ra tay chấn chỉnh với con em mình, đừng để những đồng tiền các bậc phụ huynh vất vả kiếm ra được tiêu tốn vào những nơi vô ích như showbiz và cần cho họ nếm thử mùi vị của một cuộc sống cực khổ ra sao khi
===Ý kiến của chuyên gia===
Dòng 84:
==Tại Nhật Bản==
Tại Nhật Bản từng có những cuộc cuộc [[biểu tình]] chống lại làn sóng Hàn Quốc. Cứ vào mỗi chủ nhật, khoảng 10.000 người lại tập trung tại công viên [[Odaiba]], người cầm quốc kỳ, người vẽ biểu tượng trên mặt và phản đối Lãnh đạo đài truyền hình Fuji TV của Nhật Bản đã chiếu nhiều bộ phim, chương trình ca nhạc từ Hàn Quốc với các khẩu hiệu như: “Fuji TV hãy chấm
== Chú thích ==
|