Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phùng Há”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n replaced: |thumb| → |nhỏ|, [[Image: → [[Hình:
Dòng 18:
== Xuất thân gia đình ==
=== Thời niên thiếu ===
Bà tên khai sinh là '''Trương Phụng Hảo''', sinh tại làng Điều Hòa, huyện [[Châu Thành, Tiền Giang|Châu Thành]], [[Mỹ Tho]], [[Tiền Giang]]. Cha của bà là ông Trương Nhân Trưởng, người làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh [[Quảng Đông]], [[Trung Quốc]], còn thân mẫu bà là Lê Thị Mai, người làng Ðiều Hòa, [[Mỹ Tho]] <ref name="tnnl1">[http://www.cailuongvietnam.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=4347 Trăm năm nhìn lại, kỳ 1]</ref>.
 
Bà là người con thứ 6, và cái tên Phụng Hảo được phát âm theo âm Quảng Đông là ''Phùng Há'', vì vậy bà còn được gọi là '''Bảy Phùng Há''' (theo thứ bậc gia đình của người miền Nam).
 
=== Cha qua đời ===
Dòng 29:
Năm 1924, khi ông bầu Hai Cu thành lập gánh hát Tái Đồng Ban và mời bà tham gia với vai trò đào chính để đóng cặp với kép chính [[Năm Châu]]. Ông cũng là người gợi ý bà sử dụng cái tên Phùng Há làm nghệ danh. Thầy tuồng Nguyễn Công Mạnh, nghệ sĩ Năm Châu và nhạc sĩ [[Tư Chơi]] (tức là nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung) là những người thầy đầu tiên của bà trong cuộc đời nghệ thuật. Cũng chính nghệ sĩ Năm Châu và Tư Chơi là 2 người đàn ông có mặt trong cuộc đời tình cảm của bà về sau này.
 
Vai diễn đầu tiên đánh dấu cuộc đời hoạt động nghệ thuật của bà đó là vai Giả Thị trong vở cải lương ''Hoàng Phi Hổ quy Châu'' của soạn giả [[Nguyễn Công Mạnh]]. Sau đó là các vở ''Thôi Tử thí Tề Quân'', ''Mổ tim [[Tỷ Can]]'', ''Anh hùng náo Tam Môn Nhai'' của soạn giả [[Nguyễn Châu Thành]]; ''Khúc oan vô lượng''; ''Tội của ai'' của soạn giả [[Tư Chơi]]. Thời gian này, bà đóng cặp với nghệ sĩ [[Năm Châu]] và rất được công chúng rất yêu thích.
 
Năm 1926, bà cùng các nghệ sĩ Năm Châu và Tư Chơi, Ba Du gia nhập gánh hát Trần Đắc của ông bầu Trần Đắc Nghĩa. Cùng năm này, bà kết hôn với nghệ sĩ Tư Chơi. Không lâu sau thì nghệ sĩ Năm Châu rời gánh Trần Đắc.
 
Năm 1929, bà li dị, sau đó kết hôn với nhà phú hộ ''Bạch công tử'' [[Bạch công tử|Lê Công Phước]]. Vốn là người rất mê [[cải lương]], ông đã thành lập gánh hát Huỳnh Kỳ cho bà làm bầu gánh khi mới 18 tuổi. Gánh hát quy tụ được rất nhiều đào kép nổi tiếng thời bấy giờ, như Phùng Há, Ba Vân, Năm Phỉ, Tám Du, Năm Thiện, Ba Thâu, Ba Đồng, Chín Móm, Năm Kiệt, Hai Sự, Hai Nữ, Tư Bé, Tư Hélènne... Theo nhiều tài liệu ghi lại thì đây là gánh cải lương có quy mô lớn ở vùng Lục tỉnh Nam kỳ. Ông cũng cho xây dựng rạp hát cũng với tên Huỳnh Kỳ, bên cạnh ngôi nhà của ông tại Mỹ Tho để làm nơi gánh hát biểu diễn thường xuyên<ref>Sau khi George Phước sạt nghiệp thì cả ngôi nhà và rạp hát đều bán lại cho ông Lê Ngọc Chiếu, một người giàu có ở vùng Chợ Gạo và rạp hát sau đó được đổi tên thành rạp Lê Ngọc. Khoảng năm [[1963]], ông Chiếu bán lại rạp hát cho người khác và đổi tên thành rạp Viễn Trường, đến thập niên [[thập niên 1980|1980]] lại được đổi tên thành rạp Mỹ Tho. Rạp hát hiện vẫn còn trên đường Đinh Bộ Lĩnh, thành phố [[Mỹ Tho]]. Còn ngôi nhà sau năm [[1975]] được sử dụng làm trụ sở UBND phường 3, hiện nay là trụ sở Phòng Văn hóa Thông tin và Thể thao Mỹ Tho.</ref>.
 
Thời đó những gánh hát khác đều đi bằng ghe chèo thì Bạch Công tử lại sắm một lúc tới 3 chiếc ghe có gắn máy dùng để chở đào kép đi lưu diễn và được trang bị như là du thuyền. Theo mô tả thì chiếc đi đầu chở Bạch Công tử và Phùng Há, có lầu, phía trước có cột cờ và treo cờ vàng, biểu tượng của gánh Huỳnh Kỳ. Đào kép thì đi trên chiếc ghe thứ hai, được ngăn thành nhiều phòng, nhiều ô cửa sổ, có bếp ăn, chỗ vệ sinh... Chiếc thứ ba thì chở thầy đờn, nhân viên phục vụ và cả một đội bóng. Mỗi khi gánh hát đi tới đâu, Bạch Công tử cho đào kép lên bờ đứng xếp hàng và bắt tay xã giao với chính quyền sở tại. Sau đó thì hát bản Đoàn ca, cờ vàng được kéo lên và Bạch Công tử lấy [[súng ngắn ổ xoay|súng lục]] ra đưa lên trời nổ liền mấy phát. Sau đó, trong lúc đào kép lo chuẩn bị cho đêm diễn thì đội bóng thi đấu giao hữu với đội bóng của địa phương, với mục đích thu hút khán giả tối đi xem hát. Và cho dù thắng hay thua, đội bạn cũng được chiêu đãi và mời xem hát. Khi gánh hát dời đi nơi khác, Bạch Công tử lại cho kéo cờ vàng, đốt pháo và rút súng lục ra bắn. Khán giả thì đứng chen trên bờ vẫy tay chào.
 
Nhờ lưu diễn bằng ghe nên thời đó dù ở những vùng chợ quê xa xôi như [[Vĩnh Kim]], [[Ba Dừa]], [[Cái Thia]]... đều có gánh hát tới. Được biết trong hồi ký của nghệ sĩ Ba Vân cũng có nhắc tới việc này.
 
Vở tuồng ăn khách nhất của gánh Huỳnh Kỳ là ''Giọt máu chung tình'', do [[Năm Thiên]] đóng vai Võ Đông Sơ và Phùng Há vai Bạch Thu Hà.
 
Không chỉ để lại dấu ấn trong lòng người dân miền sông nước, gánh Huỳnh Kỳ của Bạch Công tử còn thu hút được khán giả Sài Gòn. Trong hồi ký ''Nổi trôi trong ánh đèn màu'', nghệ sĩ Bảy Nhiêu đã viết: ''"Đến 3 giờ chiều thì vé các hạng của gánh Huỳnh Kỳ đều hết. Nhiều người thất vọng đón buổi tối để mua cho được vé đêm mai"''.
 
=== Giai đoạn cuối đời ===
[[ImageHình:Mộ Phùng Há.JPG|thumbnhỏ|200px|Phần mộ Phùng Hà trong Chùa Nghệ Sĩ]]
Năm [[1958]], bà đề xuất mua đất, xây dựng nên [[Chùa Nghệ Sĩ|Chùa Nghệ sĩ]] tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] để làm nơi yên nghỉ cho những [[nghệ sĩ]] [[cải lương]]<ref name="tho">[http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?idcha=997&cap=3&id=1236 Phùng Há nữ nghệ sĩ cải lương sống thọ nhất]</ref>. Bà cũng tự xuất tiền để xây dựng bia mộ cho các nghệ sĩ lão thành và cấp dưỡng cho vài nghệ sĩ nghèo.
 
Bà không chỉ là nghệ sĩ với giọng hát xuất sắc, diễn xuất tinh tế, mà bà còn có công đào tạo nhiều thế hệ nghệ sĩ, nhiều người đạt danh hiệu [[Nghệ sĩ ưu tú]]. Với những đóng góp cho nghệ thuật, năm 1984 bà được phong tặng danh hiệu [[Nghệ sĩ Nhân dân]]<ref name="tho"/>.